Việt Nam cần hơn 120 tỷ USD để thực hiện thành công sơ đồ điện VIII đến 2030

Theo chuyên gia, Việt Nam cần hơn 120 tỷ USD để thực hiện thành công sơ đồ điện VIII trong 5 năm tới (đến 2030), trong khi nguồn lực trong nước chỉ có thể đáp ứng tối đa 50-60 tỷ USD. Nghĩa là cần huy động thêm 60-70 tỷ USD từ thị trường vốn quốc tế.

Từ nay đến 2030 cần hơn 120 tỷ USD để thực hiện thành công sơ đồ điện VIII

Phát biểu tại Hội thảo “Hợp tác kinh tế quốc tế về năng lượng và thương mại tự do" do Viện Chiến lược Thương hiệu và cạnh tranh tổ chức, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hiệp hội năng lượng Việt Nam (VEA) nhấn mạnh Việt Nam đang chịu áp lực kép: Vừa phải đáp ứng nhu cầu điện năng tăng trưởng nóng (khoảng 8-10%/năm) để phục vụ phát triển kinh tế, vừa phải thực hiện chuyển đổi xanh triệt để.

“Và để làm được điều này, chúng ta cần hơn 136 tỷ USD cho đầu tư nguồn và lưới điện chỉ riêng trong giai đoạn đến năm 2030. Một con số khổng lồ”, Phó Chủ tịch VEA nhấn mạnh.

 Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: BTC.

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: BTC.

Một con số khác được nguyên Thứ trưởng Bộ KH&ĐT (nay là Bộ Tài chính) Đặng Huy Đông đưa ra là hơn 120 tỷ USD để thực hiện thành công sơ đồ điện VIII trong 5 năm tới (đến 2030).

Theo nguyên Thứ trưởng Đông, nguồn lực trong nước, gồm vốn nhà nước, vốn doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể đáp ứng tối đa khoảng 50-60 tỷ USD để đảm bảo an toàn của hệ thống tài chính quốc gia.

“Như vậy, chúng ta còn thiếu từ 60-70 tỷ USD phải huy động từ thị trường vốn quốc tế”, ông Đông nhấn mạnh.

Nguyên Thứ trưởng Bộ KH&ĐT (nay là Bộ Tài chính) Đặng Huy Đông.

Nguyên Thứ trưởng Bộ KH&ĐT (nay là Bộ Tài chính) Đặng Huy Đông.

Nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh lưu ý, nhu cầu về vốn đang tăng do suất đầu tư và công nghệ, không thể có công nghệ tốt khi không có vốn, trong khi công nghệ luôn được đổi mới.

Nhận diện các rào cản và điểm nghẽn trong quá trình thực thi các cam kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) liên quan đến năng lượng. Các chuyên gia cho rằng, mặc dù các FTA đã mở ra nhiều cơ hội tiếp cận thị trường, công nghệ và nguồn vốn, doanh nghiệp trong nước vẫn gặp khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, tận dụng ưu đãi thuế quan và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực.

Theo Phó Chủ tịch VEA, bên cạnh khát vọng, Việt Nam cần nhìn thẳng vào các rủi ro công nghệ trong quá trình chuyển dịch năng lượng. Trong đó, rủi ro lớn nhất hiện nay là an toàn và ổn định của hệ thống lưới điện khi phải tích hợp tỷ trọng lớn các nguồn năng lượng tái tạo biến đổi như điện gió, điện mặt trời.

“Lưới điện của chúng ta chưa đủ thông minh và linh hoạt để hấp thụ hiệu quả các nguồn điện này. Việt Nam đang thiếu trầm trọng các hệ thống lưu trữ năng lượng quy mô lớn (BESS) và các nguồn điện linh hoạt để điều tần và khai thác tối ưu năng lượng tái tạo,” ông Tuấn nhấn mạnh. Nếu không giải quyết được bài toán lưới điện và lưu trữ, việc tiếp tục đầu tư các dự án điện gió, điện mặt trời có nguy cơ lãng phí do không thể phát hết công suất.

Bên cạnh đó là “bẫy công nghệ” và bài toán thời điểm. Theo ông Tuấn, nếu đầu tư quá sớm vào các công nghệ chưa hoàn toàn trưởng thành về thương mại như hydro xanh hay amoniac xanh quy mô lớn, Việt Nam sẽ phải đối mặt với chi phí vốn cao và rủi ro vận hành lớn. Ngược lại, nếu tiếp tục bám vào các công nghệ cũ để bảo đảm an toàn, nguy cơ hình thành các tài sản mắc kẹt trong tương lai gần là rất rõ ràng khi các tiêu chuẩn môi trường ngày càng khắt khe.

Cần cơ chế để nâng cao tính khả thi tài chính cho các dự án năng lượng tái tạo

Phó Chủ tịch VEA Nguyễn Anh Tuấn nhấn mạnh: “Hợp tác kinh tế quốc tế về năng lượng trong kỷ nguyên mới không chỉ là việc chia sẻ lợi nhuận từ các dự án. Nó phải là sự chia sẻ rủi ro công nghệ, chia sẻ gánh nặng tài chính và chia sẻ trách nhiệm với tương lai chung của hành tinh chúng ta”.

Theo ông, giải pháp tối ưu nhất cho Việt Nam chính là Hợp tác Quốc tế sâu rộng và thực chất dựa trên ba trụ cột chính:

Trong đó, trụ cột đầu tiên phải đề cập đến là hợp tác về tài chính xanh và chia sẻ rủi ro.

“Việt Nam đánh giá cao và đang tích cực triển khai Thỏa thuận Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Bình đẳng (JETP) với nhóm các đối tác quốc tế (IPG) trị giá 15,5 tỷ USD. Tuy nhiên, chúng ta cần nhiều hơn thế. Chúng ta kêu gọi các cơ chế "Tài chính hỗn hợp". Nghĩa là, sử dụng nguồn vốn ưu đãi của các tổ chức phát triển quốc tế để làm "vốn mồi", giúp giảm thiểu rủi ro và nâng cao tính khả thi tài chính cho các dự án năng lượng tái tạo, từ đó thu hút dòng vốn tư nhân khổng lồ đang chờ đợi…”, ông Tuấn phân tích.

Trụ cột thứ hai là hợp tác công nghệ và R&D. Theo ông, chúng ta đề nghị chuyển từ mô hình "Mua bán thiết bị" đơn thuần sang mô hình "Hợp tác phát triển và chuyển giao công nghệ". Việt Nam khuyến khích các tập đoàn năng lượng hàng đầu thế giới không chỉ đến đây để bán tuabin hay tấm pin, mà hãy thiết lập các trung tâm R&D, hợp tác với các viện trường của Việt Nam để nội địa hóa công nghệ, đặc biệt là công nghệ lưới điện thông minh và lưu trữ năng lượng.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần sự chia sẻ dữ liệu và kinh nghiệm vận hành hệ thống điện có tỷ trọng năng lượng tái tạo cao từ các quốc gia đi trước.

Trụ cột thứ ba là hợp tác về cơ chế chính sách và thị trường.

“Công nghệ không thể đi trước thể chế. Chúng ta đang nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý cho cơ chế Mua bán điện trực tiếp (DPPA), phát triển thị trường tín chỉ carbon. Chúng ta mong muốn được tham vấn kinh nghiệm quốc tế để xây dựng một thị trường điện cạnh tranh minh bạch, tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư…”, Phó Chủ tịch VEA cho hay.

Ông cũng lưu ý cần sự hợp tác khu vực, đặc biệt là việc hiện thực hóa Lưới điện ASEAN (ASEAN Power Grid) để mua bán điện xuyên biên giới, là chìa khóa để tối ưu hóa nguồn lực và cân bằng tải trong khu vực.

“Hành trình chuyển dịch năng lượng của Việt Nam là một chặng đường dài, đầy chông gai nhưng không thể đảo ngược. Nó đòi hỏi sự dũng cảm để thay đổi, sự khôn ngoan để lựa chọn công nghệ, và quan trọng nhất, là sự chân thành trong hợp tác quốc tế”, Phó Chủ tịch VEA nhấn mạnh.

Trong khi đó, ông Đặng Huy Đông nhấn mạnh, để duy trì mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam cần bảo đảm nguồn cung điện ổn định, tin cậy với giá cả cạnh tranh, đây là điều kiện tiên quyết để thu hút dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các lĩnh vực chiến lược như hạ tầng, logistics, chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo.

“Điều này chỉ có thể đạt được khi chúng ta hóa giải được những thách thức lớn của ngành năng lượng đã nêu. Có như vậy, Việt Nam mới tận dụng trọn vẹn cơ hội từ biến động địa chính trị, xu thế tái cấu trúc chuỗi cung ứng và lợi thế mà các FTA thế hệ mới mang lại”, ông Đặng Huy Đông khẳng định.

Trang Mai

Nguồn Doanh Nhân VN: https://doanhnhanvn.vn/viet-nam-can-hon-120-ty-usd-de-thuc-hien-thanh-cong-so-do-dien-viii-den-2030.html