Việt Nam tích cực tham gia Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa

Việt Nam đang tích cực thảo luận kỹ thuật chuẩn bị cho vòng đàm phán cuối cùng nhằm tham gia Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa.

Toàn cảnh Hội thảo kỹ thuật Kết nối quan điểm hướng tới Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa. Ảnh: Ngọc Linh

Toàn cảnh Hội thảo kỹ thuật Kết nối quan điểm hướng tới Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa. Ảnh: Ngọc Linh

Ô nhiễm nhựa là vấn đề môi trường cấp bách thứ hai sau biến đổi khí hậu. Theo số liệu của Tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Việt Nam) năm 2021, với hơn 8.000 tấn rác thải nhựa phát sinh mỗi ngày, Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia đứng đầu thế giới về ô nhiễm nhựa.

Nhựa dùng một lần được sử dụng phổ biến ở Việt Nam và bình quân mỗi hộ gia đình sử dụng khoảng 1 kg túi nilon/tháng. Riêng tại Hà Nội và TP HCM, trung bình mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn rác thải nhựa và túi nilon.

Ông Patrick Haverman, Phó Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam. Ảnh: UNDP

Ông Patrick Haverman, Phó Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam. Ảnh: UNDP

Xử lý ô nhiễm nhựa cần sự hợp tác quốc tế và của nhiều bên liên quan

Ông Patrick Haverman, Phó Trưởng đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam cho biết: “Hơn 13.000 hóa chất đã được phát hiện trong nhựa, với hơn 3.200 hóa chất có khả năng gây lo ngại đã được xác định và một số hóa chất khác vẫn chưa được đánh giá (UNEP).

Những hóa chất này gây ra những rủi ro đáng kể cho sức khỏe con người và góp phần làm suy thoái môi trường cũng như gây ô nhiễm hệ sinh thái lâu dài. Các nghiên cứu cũng đã xác nhận rằng vi nhựa đã xâm nhập vào phần sâu nhất của cơ thể con người và có thể ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa, hô hấp, nội tiết, sinh sản và miễn dịch.

Để giải quyết những vấn đề này, cần có một cách tiếp cận toàn diện bao gồm các quy định nghiêm ngặt, giám sát chặt chẽ và nâng cao nhận thức của công chúng.”

Theo ông Patrick Haverman, Hiệp ước toàn cầu về ô nhiễm nhựa cung cấp cơ sở hiệu quả và ràng buộc về mặt pháp lý để loại bỏ dần hóa chất nguy hại trong các sản phẩm nhựa, với mốc thời gian và mục tiêu rõ ràng.

Trên cơ sở đó, các ngành công nghiệp có thời gian để chuẩn bị và chuyển đổi, đảm bảo sự chuyển đổi có hệ thống và có thể quản lý được sang các giải pháp thay thế an toàn hơn và khuyến khích phát triển các hoạt động bền vững.

Phó Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam nhấn mạnh, UNDP cam kết cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho phái đoàn Việt Nam để tham gia cuộc họp giữa kỳ sắp tới tại Thái Lan và Hội nghị đàm phán lần thứ 5 Ủy ban đàm phán Liên chính phủ (INC-5) tại Hàn Quốc.

Trao đổi với Mekong ASEAN, ông Lê Ngọc Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết: “Giống như các quốc gia khác, ô nhiễm nhựa ở Việt Nam là một vấn đề môi trường đe dọa đến các hệ sinh thái và sức khỏe con người."

Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã có nhiều hành động để giải quyết. Đồng thời Việt Nam cũng nhận được sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc tế như WWF, USAID... trong việc xử lý vấn đề ô nhiễm nhựa và rác thải nhựa đại dương.

Việc xử lý ô nhiễm nhựa cần có sự tham gia của toàn xã hội, của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, đối tác quốc tế. Việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này rất quan trọng và ngày càng đặc biệt hơn.

"Việt Nam cần đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế để có sự hỗ trợ về cả kinh nghiệm xử lý, công nghệ, cũng như về lâu dài cần có phương án thay thế các sản phẩm nhựa có thể thay thế được. Nhất là trong bối cảnh Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa mà Việt Nam tham gia", ông Lê Ngọc Tuấn nhấn mạnh.

Hướng tới Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa

Việt Nam ủng hộ việc xây dựng một thỏa thuận toàn cầu có tính ràng buộc về pháp lý để giải quyết vấn đề này. Đây sẽ là bộ khung pháp lý để các quốc gia thành viên xây dựng hành động giảm ô nhiễm nhựa và cùng nỗ lực giải quyết các thách thức về môi trường.

Ông Lê Ngọc Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Ảnh: UNDP

Ông Lê Ngọc Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Ảnh: UNDP

Theo ông Lê Ngọc Tuấn, sau quá trình trao đổi kể từ Hội nghị đàm phán thứ nhất Ủy ban đàm phán Liên chính phủ (INC-1) cho đến Hội nghị lần thứ tư (INC-4) tại Canada tháng 4 vừa qua, có hai nhóm vấn đề vướng mắc cần được thảo luận để đi đến sự đồng thuận.

Đó là vấn đề liên quan đến các nguồn và phương thức thực hiện tiềm năng có thể huy động để thực hiện các mục tiêu của Thỏa thuận. Trong đó bao gồm các phương án thiết lập cơ chế tài chính, điều chỉnh các dòng tài chính và xúc tác tài chính (đối với nội dung về phương thức thực hiện).

Ngoài ra, cần xác định và phân tích các phương pháp tiếp cận dựa trên tiêu chí và phi tiêu chí liên quan đến ô nhiễm nhựa và các hóa chất được quan tâm trong các sản phẩm nhựa và thiết kế sản phẩm, tập trung vào khả năng tái chế và tái sử dụng của các sản phẩm nhựa cũng như công dụng và ứng dụng của các sản phẩm nhựa.

Tại hội thảo kỹ thuật “Kết nối các quan điểm hướng tới Hiệp ước về nhựa toàn cầu” do Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp cùng UNDP tổ chức cuối tuần qua tại Ninh Bình, các đại biểu đã tập trung thảo luận các vấn đề còn nhiều điểm khác biệt này nhằm phục vụ các cuộc đàm phán tại Hội nghị lần thứ 5 (INC-5) tại Busan, Hàn Quốc vào tháng 11 tới đây.

Ông Tao Wang, Chuyên gia tài chính môi trường cấp cao, Ngân hàng Thế giới (World Bank) đưa ra khuyến nghị về việc xây dựng cơ chế tài chính như quỹ đa phương, là những quỹ lớn được cộng đồng quốc tế tài trợ, hoặc dựa trên các tổ chức hiện hữu đóng vai trò cánh tay thực thi, hoặc tạo ra quỹ mới độc lập, định chế mới hoạt động theo khuôn khổ pháp luật của chính phủ sở tại cùng vai trò và các phương án phù hợp với mục tiêu đề ra.

Chia sẻ kinh nghiệm về các phương án thiết lập cơ chế tài chính hiệu quả, ông Oliver Boachie, Cố vấn đặc biệt cho Bộ trưởng Bộ Môi trường, Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Ghana lưu ý, các khía cạnh tài chính cần được giải quyết trực tiếp như một yếu tố thiết yếu để đạt được mục tiêu của Thỏa thuận.

Theo ông Oliver Boachie, quy mô và phạm vi nghĩa vụ của Thỏa thuận này rất lớn và các phương thức tài trợ truyền thống là không đủ. Do đó, cần phải huy động các nguồn tài trợ phi truyền thống bổ sung bao gồm khu vực tư nhân và các chương trình tài chính đổi mới để đảm bảo tính bền vững.

Để giải quyết vấn đề ô nhiễm chất thải nhựa, Chương trình đối tác hành động quốc gia về nhựa tại Việt Nam (NPAP) đã xác định ba giải pháp can thiệp chính bao gồm: giảm thiểu và thay thế nhựa; mở rộng năng lực tái chế mang lại hiệu quả về mặt kinh tế; mở rộng thu gom và xử lý an toàn chất thải rắn sinh hoạt.

Bà Quách Thị Xuân, đại diện cho Tổ chức Môi trường Thái Bình Dương (Pacific Environment Vietnam). Ảnh: UNDP

Bà Quách Thị Xuân, đại diện cho Tổ chức Môi trường Thái Bình Dương (Pacific Environment Vietnam). Ảnh: UNDP

Bà Quách Thị Xuân, đại diện cho Tổ chức Môi trường Thái Bình Dương (Pacific Environment Vietnam), nhấn mạnh: “Để đạt được sự đồng thuận tại INC-5 sắp tới, tất cả các bên cần làm rõ cách tiếp cận của mình đối với từng vấn đề. Ngoài ra, điều quan trọng đối với Hiệp ước là thiết lập một bộ tiêu chí thống nhất để xác định các biện pháp kiểm soát.”

Cùng với phân tích về thiết kế sinh thái hướng tới kinh tế tuần hoàn nhựa, các chuyên gia từ Tổ chức Môi trường Thái Bình Dương cũng đặc biệt tập trung vào biện pháp tăng cường tái sử dụng và tái chế các sản phẩm, bao bì nhựa.

Cần xây dựng cơ chế quản lý, cung cấp thông tin các loại hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm

Theo đại diện Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp, Bộ Công Thương, hiện nay có bốn nhóm sản phẩm nhựa chính, bao gồm nhựa bao bì, nhựa gia dụng, nhựa vật liệu xây dựng và nhựa kỹ thuật. Nguyên liệu chủ yếu được sản xuất tại Nhà máy Lọc hóa dầu Bình Sơn, Nghi Sơn, Hưng Nghiệp Formosa, Nhựa và Hóa chất Phú Mỹ, TPC, Polystyren Việt Nam…

Trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040 đặt ra mục tiêu đến năm 2030 sẽ đầu tư sản xuất các loại hạt nhựa nguyên sinh: nhựa polyethylen (PE), polypropylen (PP), polyvinyl chlorid (PVC), polystyren (PS), acrylbutadien styren (ABS)...

Thực tế hiện nay, trong thành phần nhiều sản phẩm như sơn, mực in và keo dán, chất tẩy rửa… có chứa hóa chất nguy hiểm, có thể phát tán trong quá trình sản xuất, sử dụng, ảnh hưởng sức khỏe người tiêu dùng nhưng nhà sản xuất chưa cung cấp thông tin về các thành phần nguy hiểm hoặc thông tin còn chung chung.

Đại diện Bộ Công Thương cho biết, theo xu hướng quản lý hóa chất của thế giới, Việt Nam cần xây dựng cơ chế quản lý, cung cấp thông tin về các loại hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm. Đặc biệt là các sản phẩm tiêu dùng có thể ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, gây gánh nặng cho công tác xử lý chất thải có chứa hóa chất độc hại có thể ảnh hưởng lâu dài đến môi trường.

Theo đó, việc giảm hoặc chấm dứt sản xuất, tiêu thụ nhựa cần có lộ trình phù hợp với năng lực quốc gia. Ví dụ như đối với nhựa polyme nguyên sinh cần thực hiện quản lý và giảm thiểu dựa trên năng lực quốc gia; đối với sản phẩm nhựa dùng một lần, thời gian sử dụng ngắn cần thực hiện các biện pháp cần thiết để quản lý và giảm thiểu; đối với hóa chất và polyme đáng quan tâm sẽ thực hiện các biện pháp quản lý cần thiết phù hợp với năng lực quốc gia, giảm thiểu và loại bỏ khi thích hợp.

Việc giải quyết ô nhiễm nhựa là một quá trình lâu dài, cần huy động sự tham gia hiệu quả hơn nữa của toàn xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế. INC-5 dự kiến sẽ là vòng đàm phán cuối cùng nhằm thiết lập văn bản quốc tế ràng buộc về mặt pháp lý đầu tiên về ô nhiễm nhựa. Để chuẩn bị cho INC-5, các bên đã thống nhất tổ chức một phiên họp nhóm chuyên gia giữa kỳ tại Bangkok (Thái Lan) vào tháng 8 sắp tới.

Mặc dù các cuộc họp nhóm chuyên gia giữa kỳ không phải là phiên đàm phán chính thức nhưng những nội dung trao đổi, thống nhất tại các cuộc họp này sẽ góp phần định hình nên Thỏa thuận toàn cầu trong tương lai.

Ngọc Linh

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/viet-nam-tich-cuc-tham-gia-thoa-thuan-toan-cau-ve-o-nhiem-nhua-31769.html