Xã Lâm Bình: Hộ dân tộc thiểu số từ chờ đợi hỗ trợ đến chủ động tham gia các mô hình sinh kế

Trong tổng số hộ thoát nghèo xã Lâm Bình, 100% là hộ đồng bào dân tộc thiểu số, cho thấy chính sách đi đúng đối tượng, đúng trọng tâm của Chương trình.

Sau sắp xếp và vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp, xã Lâm Bình (tỉnh Tuyên Quang) được cấu thành từ toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của thị trấn Lăng Can, xã Phúc Yên, xã Xuân Lập của huyện Lâm Bình cũ.

Huyện Lâm Bình cũ là một trong những đơn vị hành chính thuộc khu vực khó khăn theo Quyết định số 353/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025.

Thực hiện Quyết định số 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, theo đánh giá của lãnh đạo xã Lâm Bình, địa phương đạt được nhiều kết quả nổi bật, đặc biệt số hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số giảm mạnh.

Giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Chẩu Văn Đệ - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Lâm Bình (tỉnh Tuyên Quang) cho biết, triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025, địa phương xác định có ba nhóm điều kiện thuận lợi nổi bật và đã chủ động khai thác hiệu quả. Đó là thuận lợi về cơ chế, chính sách; về nguồn lực đầu tư; và đặc biệt là sự đồng thuận, tham gia tích cực của người dân.

 Ông Chẩu Văn Đệ - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang (ngoài cùng, bên phải). Ảnh: NVCC

Ông Chẩu Văn Đệ - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang (ngoài cùng, bên phải). Ảnh: NVCC

Cụ thể, về cơ chế, chính sách, Chương trình giảm nghèo bền vững được ban hành với hệ thống văn bản hướng dẫn đầy đủ, phân định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành. Điều này giúp địa phương thuận lợi trong công tác xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát. Đặc biệt, việc cho phép lồng ghép các nguồn vốn và nội dung của Chương trình giảm nghèo với Chương trình xây dựng nông thôn mới và Chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã tạo điều kiện để xã triển khai các mô hình hỗ trợ sản xuất, sinh kế một cách đồng bộ, tránh dàn trải và trùng lặp.

Về nguồn lực, ngoài nguồn vốn ngân sách nhà nước phân bổ theo Chương trình, địa phương đã tận dụng tốt nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, các chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất, đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, xã cũng tranh thủ được sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thông qua các hoạt động an sinh xã hội, hỗ trợ nhà ở, cây con giống, vật tư sản xuất cho hộ nghèo, hộ cận nghèo. Việc sử dụng nguồn lực được thực hiện theo hướng tập trung, có trọng tâm, ưu tiên cho các hộ nghèo có khả năng vươn lên, qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư.

Về sự tham gia của người dân, qua công tác tuyên truyền, vận động, nhận thức của hộ nghèo, hộ cận nghèo đã có chuyển biến rõ rệt; nhiều hộ đã thay đổi tư duy trông chờ, ỷ lại, chủ động đăng ký tham gia các mô hình sinh kế, mạnh dạn vay vốn, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Cùng với đó vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong việc đồng hành, hướng dẫn, giám sát quá trình thực hiện được phát huy, tạo sự đồng thuận và niềm tin trong nhân dân.

 Người dân xã Lâm Bình được tiếp cận các nguồn vốn của ngân hàng chính sách xã hội. Ảnh: NVCC

Người dân xã Lâm Bình được tiếp cận các nguồn vốn của ngân hàng chính sách xã hội. Ảnh: NVCC

“Từ thực tiễn triển khai, có thể khẳng định rằng thuận lợi của địa phương không đến từ một yếu tố đơn lẻ, mà là sự kết hợp hài hòa giữa cơ chế chính sách phù hợp, nguồn lực được huy động và sử dụng hiệu quả, cùng với sự chủ động, tham gia tích cực của người dân. Đây chính là nền tảng quan trọng để Chương trình giảm nghèo bền vững được triển khai thực chất và đạt kết quả lâu dài”, ông Đệ chia sẻ.

Đến thời điểm hiện tại, xã Lâm Bình đã đạt được những kết quả cụ thể. Trong đó, đối với một xã miền núi, có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, việc triển khai Chương trình mang lại những kết quả cụ thể, rõ nét, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.

Nổi bật là toàn xã hiện còn 868 hộ nghèo, chiếm 32,56 %; số hộ cận nghèo còn 614 hộ, chiếm 23,03%. Bình quân mỗi năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm 5,0%, đạt (hoặc vượt) chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Đáng chú ý, trong tổng số hộ thoát nghèo, 100% là hộ đồng bào dân tộc thiểu số, cho thấy chính sách đã đi đúng đối tượng, đúng trọng tâm của Chương trình.

Các mô hình sinh kế như chăn nuôi gia súc thả bán tự nhiên, trồng cây lâm nghiệp, cây dược liệu dưới tán rùng, phát triển nông nghiệp gắn với bảo vệ rừng; nghề truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó, nhiều hộ dân đã từng bước ổn định đời sống và đủ điều kiện thoát nghèo.

 Lãnh đạo xã Lâm Bình đến thăm mô hình nuôi vịt thả suối của người dân. Ảnh: NVCC

Lãnh đạo xã Lâm Bình đến thăm mô hình nuôi vịt thả suối của người dân. Ảnh: NVCC

 Mô hình nuôi vịt thả suối ở xã Lâm Bình. Ảnh: NVCC

Mô hình nuôi vịt thả suối ở xã Lâm Bình. Ảnh: NVCC

 Mô hình nuôi vịt đẻ trứng giúp người dân cải thiện kinh tế, ổn định đời sống. Ảnh: NVCC

Mô hình nuôi vịt đẻ trứng giúp người dân cải thiện kinh tế, ổn định đời sống. Ảnh: NVCC

 Mô hình nuôi dê sinh sản tại xã Lâm Bình. Ảnh: NVCC

Mô hình nuôi dê sinh sản tại xã Lâm Bình. Ảnh: NVCC

Địa phương cũng đã hỗ trợ cải thiện đời sống và tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản ở vùng khó khăn, hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát, hỗ trợ nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Nhờ đó, các chiều thiếu hụt cơ bản của hộ nghèo miền núi từng bước được thu hẹp.

“Qua quá trình triển khai Chương trình, điều quan trọng nhất là nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số đã có sự chuyển biến tích cực. Tư duy trông chờ, ỷ lại từng bước được thay thế bằng ý thức tự lực, tự cường; nhiều hộ đã chủ động vay vốn tín dụng chính sách, đầu tư vào sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ và phát triển rừng, gắn sinh kế với điều kiện tự nhiên của địa phương.

Có thể khẳng định rằng, trong điều kiện một xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, những kết quả nêu trên cho thấy Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã tạo tác động thực chất, bền vững, góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”, ông Đệ chia sẻ.

 Mô hình trồng rau bò khai tại xã Lâm Bình. Ảnh: NVCC

Mô hình trồng rau bò khai tại xã Lâm Bình. Ảnh: NVCC

Trong các kết quả đã đạt được, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Lâm Bình cho rằng kết quả nổi bật nhất là việc hình thành và phát huy hiệu quả các mô hình sinh kế phù hợp với điều kiện miền núi, gắn với thay đổi tư duy của hộ nghèo, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Bởi, so với việc hỗ trợ mang tính ngắn hạn, các mô hình sinh kế tạo ra nguồn thu nhập tương đối ổn định, giúp nhiều hộ nghèo không chỉ thoát nghèo mà còn hạn chế rõ rệt nguy cơ tái nghèo. Qua thực tế triển khai, nhiều hộ tham gia mô hình chăn nuôi/trồng rừng/trồng dược liệu/dịch vụ gắn với điều kiện địa phương đã từng bước chủ động trong sản xuất, có kế hoạch làm ăn lâu dài, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào sự hỗ trợ của Nhà nước.

Yếu tố cốt lõi tạo nên điểm sáng này trước hết là cách làm phù hợp với thực tiễn địa bàn miền núi. Địa phương không áp dụng máy móc các mô hình từ nơi khác, mà lựa chọn các loại cây trồng, vật nuôi, ngành nghề phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, tập quán sản xuất và khả năng tiếp cận thị trường của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Các mô hình được triển khai theo hướng “cầm tay chỉ việc”, gắn hỗ trợ vốn với hướng dẫn kỹ thuật, theo dõi, đánh giá thường xuyên.

Bên cạnh đó, sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị là yếu tố hết sức quan trọng. Ủy ban nhân dân xã chủ động phối hợp với các đơn vị trong việc tuyên truyền, lựa chọn đúng đối tượng, giám sát quá trình thực hiện. Các tổ chức đoàn thể đã trực tiếp đồng hành với hộ nghèo, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện mô hình.

“Yếu tố quyết định chính là sự chuyển biến trong nhận thức và ý chí vươn lên của người dân. Khi người dân tin tưởng vào hiệu quả của chính sách, chủ động tham gia và coi giảm nghèo là trách nhiệm của chính mình, thì các chính sách hỗ trợ của Nhà nước mới thực sự phát huy hiệu quả. Chính sự thay đổi này đã tạo nên “điểm sáng” trong công tác giảm nghèo bền vững của địa phương trong thời gian qua”, ông Đệ chia sẻ.

 Địa phương tích cực tuyên truyền về chuyển đổi số và hướng dẫn sử dụng dịch vụ công trực tuyến cho bà con nhân dân trên địa bàn. Ảnh: NVCC

Địa phương tích cực tuyên truyền về chuyển đổi số và hướng dẫn sử dụng dịch vụ công trực tuyến cho bà con nhân dân trên địa bàn. Ảnh: NVCC

Tăng cường hỗ trợ khoa học kỹ thuật, đào tạo nghề và liên kết thị trường

Để bảo đảm mục tiêu giảm nghèo bền vững, đặc biệt đối với địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Ủy ban nhân dân xã Lâm Bình đề xuất một số nội dung trọng tâm với các cấp có thẩm quyền nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và hỗ trợ cơ sở triển khai hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Cụ thể, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng ổn định, dài hạn và sát thực tiễn cơ sở. Đối với các xã miền núi như xã Lâm Bình, cần có cơ chế linh hoạt hơn trong lựa chọn mô hình sinh kế, định mức hỗ trợ và phương thức tổ chức thực hiện. Đồng thời, các văn bản hướng dẫn cần được ban hành kịp thời, thống nhất để địa phương chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai ngay từ đầu năm.

Đề nghị tăng cường và phân bổ nguồn lực có trọng tâm, trọng điểm. Ngoài nguồn vốn hỗ trợ trực tiếp từ Chương trình giảm nghèo bền vững, cần tiếp tục ưu tiên nguồn lực cho đầu tư hạ tầng thiết yếu ở các thôn, bản đặc biệt khó khăn như giao thông, nước sinh hoạt, điện, hạ tầng phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, kiến nghị kéo dài thời gian thực hiện các dự án sinh kế để người dân có đủ thời gian tích lũy kinh nghiệm, tạo thu nhập ổn định, hạn chế tái nghèo.

Cũng theo ông Đệ, cần tăng cường hỗ trợ về khoa học kỹ thuật, đào tạo nghề và liên kết thị trường. Đối với vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số, việc hỗ trợ “cầm tay chỉ việc”, chuyển giao kỹ thuật phù hợp với điều kiện địa phương là rất quan trọng. Đồng thời, cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho hộ nghèo, qua đó giúp giảm nghèo gắn với phát triển sản xuất hàng hóa bền vững.

Cần quan tâm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo ở cơ sở. Cán bộ cấp xã trực tiếp tổ chức thực hiện Chương trình nhưng còn kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực, vì vậy rất cần được tập huấn chuyên sâu, cập nhật thường xuyên các chính sách mới, cũng như có cơ chế hỗ trợ phù hợp để cán bộ yên tâm công tác.

Cuối cùng, địa phương mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp và sự lắng nghe kịp thời ý kiến từ cơ sở để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

“Chúng tôi tin rằng, khi chính sách được hoàn thiện, nguồn lực được hỗ trợ đồng bộ và triển khai sát thực tiễn, người dân đặc biệt là hộ nghèo, hộ cận nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số sẽ có thêm điều kiện tiếp cận sinh kế ổn định, nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống và chủ động vươn lên thoát nghèo một cách bền vững. Điều này sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương trong thời gian tới”, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Lâm Bình Chẩu Văn Đệ bày tỏ.

Ngọc Mai

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/xa-lam-binh-ho-dan-toc-thieu-so-tu-cho-doi-ho-tro-den-chu-dong-tham-gia-cac-mo-hinh-sinh-ke-post256863.gd