Xây dựng chiến lược 'sản xuất tại Việt Nam và lắp ráp, hoàn thiện tại Mỹ'
Các chính sách thương mại quốc tế mới của Mỹ là cơ hội để doanh nghiệp Việt chuyển mình, bước lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị, củng cố nội lực, xây dựng thương hiệu riêng, tạo lợi ra lợi thế cạnh tranh nhất định…

Kim ngạch xuất khẩu dệt may 7 tháng năm 2025 đạt 26,3 tỷ USD, tăng trưởng khoảng 9% so với cùng kỳ năm 2024.
Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đang có những điều chỉnh lớn trong chính sách thương mại với các quốc gia, kéo theo tác động sâu rộng đến Việt Nam: từ dòng chảy hàng hóa, đầu tư cho đến vị trí trong bản đồ thương mại toàn cầu, đặc biệt với các ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giày, gỗ, điện tử…
HẦU HẾT DOANH NGHIỆP XUẤT SANG MỸ ĐỀU BỊ ẢNH HƯỞNG
Tại tọa đàm "Chính sách thương mại quốc tế mới của Mỹ: Dự đoán chuỗi cung ứng toàn cầu và cách thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam" do Tạp chí Doanh Nhân Sài Gòn và Viện Sáng kiến Việt Nam đồng tổ chức mới đây, ông Phạm Văn Việt, Phó Chủ tịch Hội dệt may thời trang TPHCM, cho biết 7 tháng năm 2025 kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 26,3 tỷ USD, tăng trưởng khoảng 9%.
Tuy nhiên, ngành cũng đang đối mặt với nhiều bất ổn khi mức thuế đối ứng xuất khẩu sang Mỹ là 20% và “treo” ở mức 40% đối với hàng hóa trung chuyển - dù mức này chưa rõ ràng. Song với sự thay đổi này đã gây ra bất ổn với cả khách hàng nhập khẩu Mỹ.
Trên thực tế, nếu cộng thêm 20% thuế đối ứng, thì sản phẩm dệt may Việt Nam xuất sang Mỹ phải chịu tổng mức thuế dao động từ 35,2% - 40% (tùy mặt hàng), trung bình khoảng 37,9%.
Ông Việt khẳng định: "Mức thuế này nếu so với các khu vực như Bangladesh và Ấn Độ , chúng ta cũng có thể cạnh tranh được, nhưng khả năng cạnh tranh với các nước khác bị giảm đáng kể. Như Mexico, dệt may của họ cũng rất tốt, mức thuế họ xuất sang Mỹ thấp hơn chúng ta tới hơn 20%".
“Điều lo ngại nhất là xuất xứ hàng hóa. Vì dệt may nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc tới 40 - 50%. Hiện tại, Mỹ chưa đánh thuế với xuất xứ hàng hóa dệt may, nhưng nếu bên Mỹ kiểm định lại và áp thuế xuất xứ thì dệt may gặp rất nhiều khó khăn”, ông Việt lo lắng.
Tương tự, với ngành đồ gỗ, ông Nguyễn Chánh Phương, Phó Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM, thông tin thêm rằng 7 tháng năm 2025, ngành gỗ xuất khẩu vẫn tiếp tục ở mức cao, tăng khoảng 8% so với năm 2024. Thị trường Hoa Kỳ vẫn tiếp tục tăng ở mức tương tự.

7 tháng năm 2025, ngành gỗ xuất khẩu vẫn tiếp tục ở mức cao.
Tuy vậy, khi áp dụng mức thuế đối ứng, các nhà sản xuất Việt Nam phải chia sẻ chi phí (chia ba hoặc chia đôi) trong mức thuế này. Chúng ta phải giảm giá để giữ vững được thị trường, rõ ràng điều này trở thành một gánh nặng cho doanh nghiệp. Khi đó, doanh nghiệp phải tối ưu hóa lại tất cả các vấn đề, từ nguyên vật liệu đến nhân công, năng suất… để giữ được thị trường.
Một thách thức nữa là các loại vải, da bọc, nguyên liệu kim loại, nhôm phục vụ đồ gỗ lại không phải là thế mạnh của Việt Nam. Do đó, theo ông Phương, các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam phải đa dạng được khả năng cung ứng, không chỉ là gỗ mà là vải, là kim loại… như thế mới có thể biến thách thức thành cơ hội để gia tăng cái xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ.
ĐÃ ĐẾN LÚC XUẤT KHẨU KHÔNG DỰA VÀO GIA CÔNG GIÁ RẺ
Bên cạnh các thách thức, nhiều nhận định cho rằng đây cũng là thời điểm mở ra cơ hội để doanh nghiệp Việt bước sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, khi xu hướng dịch chuyển sản xuất và đa dạng hóa nguồn cung ngày càng rõ rệt.
Nếu biết tận dụng, doanh nghiệp không chỉ giảm thiểu rủi ro từ chính sách bảo hộ mà còn có thể nâng cao năng lực nội địa, tham gia sâu hơn vào các công đoạn có giá trị gia tăng cao, từ đó khẳng định vị thế của Việt Nam trong bản đồ thương mại quốc tế.
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh này, kể cả không có thuế đối ứng, dệt may Việt Nam phải chuyển lên nấc thang giá trị cao hơn. Để ứng phó, ông Việt cho biết hiện đã có 70 - 80% doanh nghiệp dệt may hoàn thiện hồ sơ truy xuất nguồn gốc đầy đủ. Đồng thời, ngành dệt may đang nỗ lực nội địa hóa nguyên liệu vải khoảng 30 - 50% trong 2 năm tới. Đặc biệt, chuyển đổi sản xuất từ FOB sang OBM và phát triển thương hiệu Việt xuất khẩu.
Bên cạnh đó, ngành dệt may đang dự thảo đề án doanh nghiệp xanh, sản xuất sản phẩm xanh và sạch, phát triển mạnh nguyên phụ liệu tái chế, nguyên liệu hữu cơ, tiết kiệm năng lượng…
Về dài hạn, dệt may tiếp tục chuyển đổi công nghệ, tăng nhanh tỷ lệ nội địa hóa, hợp tác với ASEAN để thay đổi chuỗi cung ứng; phát triển thị trường nội địa, tập trung phát triển thương hiệu tại Việt Nam.
Theo ông Việt, việc quan trọng nhất trong thời gian tới, chúng tôi phải dự báo được biến động của thị trường, đặc biệt là thị trường Mỹ. Dự báo được xu hướng và sự chuyển dịch chuỗi cung ứng của ngành dệt may, tăng khả năng cạnh tranh vào thị trường Mỹ.
Theo GS Nguyễn Đức Khương, Giám đốc điều hành Giám đốc điều hành Trường Kinh doanh Leonard de Vinci (EMLV Business School), Chủ tịch sáng lập AVSE Global, thách thức chính là cơ hội để Việt Nam mình vươn lên trong chuỗi giá trị, thông qua nội địa hóa nhiều cấu phần sản xuất của Việt Nam.
Ở góc độ thay đổi thuế quan, tỷ suất thuế quan áp dụng cho hàng hóa Việt Nam, nhìn trong ngắn hạn Việt Nam vẫn là một quốc gia đang hưởng lợi. Chúng ta giảm về hoạt động thương mại với Mỹ, không muốn đi vào “ngõ hẹp” giữa Trung Quốc và Mỹ, nên với thị trường khác doanh nghiệp Việt Nam đã rất năng động, liên tục tìm cách mở ra những “cánh cửa” mới. Đây là cách tiếp cận rất phù hợp.
Đơn cử như thị trường châu Âu, doanh nghiệp Việt Nam đang tận dụng rất tốt “đại lộ EVFTA”. Ngành dệt may, da giày xuất sang EU với mức thuế 0% đang thực sự là một cơ hội rất tốt trong bối cảnh hiện nay. Vấn đề quan trọng nhất là chúng ta tìm cách nâng chuẩn chất lượng của mình và nhanh chóng cập nhật công nghệ, đáp ứng các yêu cầu nhập khẩu của thị trường EU…
Còn theo GS Trần Ngọc Anh, Đại học Indiana (Hoa Kỳ), Sáng lập mạng lưới sáng kiến Việt Nam, chúng ta cần phải xây dựng một chiến lược phối hợp “sản xuất tại Việt Nam và lắp ráp, hoàn thiện tại Mỹ”.
Đặc biệt quan tâm những mặt hàng chiến lược, liên quan đến an ninh của họ. Chúng ta nên phát hiện ra những mặt hàng là phi chiến lược của họ thì chúng ta sẽ tương đối an toàn và giảm rủi ro khi đi vào thị trường này.

GS Trần Ngọc Anh, Đại học Indiana (Hoa Kỳ), Sáng lập mạng lưới sáng kiến Việt Nam.
Bên cạnh đó là vấn đề tuân thủ. Họ đưa ra rất nhiều đòi hỏi buộc xuất khẩu phải tuân thủ. Do đó, chúng ta cần phải có hệ thống thông tin, thậm chí sử dụng các công nghệ như blockchain để truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Nữa là, chúng ta phải tìm ra được thị trường ngách của mình và tránh chuyện đầu tư cạnh tranh bằng giá, điều này rất rủi ro. “Đã đến lúc doanh nghiệp phải tạo ra được thương hiệu riêng, giá trị dương, câu chuyện, chất lượng, văn hóa đằng sau sản phẩm của mình, chúng ta không dựa vào gia công giá rẻ nữa”, GS Trần Ngọc Anh khuyến nghị.