Xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với phòng vệ thương mại là cần thiết và cấp bách

Tiếp tục chương trình làm việc kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, chiều 26/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước quốc tế và Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế.

 Đại biểu Trần Thị Vân thảo luận tại hội trường Quốc hội, chiều 26/11.

Đại biểu Trần Thị Vân thảo luận tại hội trường Quốc hội, chiều 26/11.

Tham gia thảo luận, cho ý kiến vào Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Thị Vân cơ bản tán thành với nhiều nội dung của Dự thảo Nghị quyết; đồng thời góp ý nhiều nội dung liên quan.

Về cơ chế sử dụng nguồn thuế phòng vệ thương mại để hỗ trợ doanh nghiệp, quy định tại Điều 14, đại biểu cho rằng: Thực tiễn thời gian qua cho thấy, các vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang tăng nhanh và diễn biến ngày càng phức tạp. Theo thống kê, đến giữa năm 2025, Việt Nam đã phải đối mặt với khoảng 290 vụ việc từ 25 thị trường khác nhau. Việc bị áp thuế phòng vệ thương mại khiến giá xuất khẩu tăng mạnh, giảm sức cạnh tranh, bào mòn lợi nhuận và nguồn lực của doanh nghiệp, nhất là trong trường hợp các vụ việc bị kéo dài nhiều năm. Với doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ chi phí để theo đuổi những vụ việc như trên, trong khi lại chính là đối tượng chịu tác động nặng nề nhất. Nếu không có cơ chế hỗ trợ phù hợp thì nguy cơ mất thị trường là hoàn toàn có thể xảy ra cho dù sản phẩm có chất lượng và năng lực cạnh tranh tốt.

Vì vậy, việc xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với phòng vệ thương mại là cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, cần thiết kế chính sách phù hợp bảo đảm vừa hỗ trợ được doanh nghiệp nhưng không trái với quy định mà WTO cấm. Bởi nếu vi phạm quy định của WTO sẽ dẫn đến phản tác dụng và gây rủi ro pháp lý cho chính ngành hàng mà chúng ta muốn bảo vệ.

Đại biểu đề nghị việc trích lại một phần tiền thuế nhập khẩu để phục vụ công tác phòng vệ thương mại là bước tiến phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Nhưng nếu quy định “một phần” mà không có nguyên tắc định lượng thì rất khó dự báo, khó triển khai và doanh nghiệp cũng khó có thể lập kế hoạch lâu dài. Do đó đại biểu đề nghị dự thảo Nghị quyết quy định rõ nguyên tắc về sử dụng ngân sách nhà nước, bảo đảm phù hợp với cam kết quốc tế và giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể.

Nên mở rộng đối tượng hỗ trợ, không chỉ dừng lại ở các hiệp hội. Bởi, trong nhiều vụ việc, bên gặp khó đầu tiên không phải hiệp hội mà chính là các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu. Đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, khi không đủ chi phí thuê luật sư thì gần như không thể tự bảo vệ được mình. Vì vậy, đại biểu đề nghị mở rộng đối tượng hỗ trợ, bao gồm cả doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy định tại khoản 1, Điều 14.

Đại biểu cho rằng, chúng ta không đợi đến khi xảy ra vụ kiện mới hỗ trợ, mà phải dành nguồn lực cho phòng ngừa từ sớm, từ xa. Doanh nghiệp cần được hỗ trợ để đào tạo, nâng cao năng lực, chuẩn hóa hệ thống kế toán, dữ liệu, đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường và kỹ thuật của thị trường nhập khẩu.

Theo đại biểu, nếu thiết kế chính sách một cách khéo léo, linh hoạt, phù hợp thông lệ quốc tế, vừa phù hợp thực tiễn sẽ tạo nên “lá chắn mềm”, hiệu quả để bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập.

Việc cho phép địa phương mở văn phòng đại diện tại nước ngoài quy định tại Điều 15 là một trong những giải pháp đột phá, thay đổi tư duy theo hướng công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, bao gồm cả trung ương và địa phương. Từ đó tạo cơ chế cho địa phương mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia sâu và rộng hơn trong hội nhập, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo kênh xúc tiến đầu tư liên tục thay vì qua các hội nghị và đoàn công tác, giúp các địa phương tiếp cận thị trường, thúc đẩy thương mại và xuất khẩu, quảng bá du lịch và hình ảnh của các địa phương.

Với 41 quốc gia, vùng lãnh thổ đang đầu tư tại Bắc Ninh, trong đó có nhiều công ty điện tử lớn đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Singapore… Bắc Ninh tiếp tục có chủ trương thu hút thêm các doanh nghiệp FDI công nghệ cao, điện tử, linh kiện bán dẫn, thì việc Nghị quyết cho phép đặt văn phòng đại diện của địa phương tại nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Bắc Ninh kết nối, kêu gọi hỗ trợ và thu hút nhiều hơn nữa các doanh nghiệp khác trên thế giới ở lĩnh vực này tiếp tục đến đầu tư ổn định, lâu dài tại Bắc Ninh.

Tuy nhiên, chính sách cho phép mở văn phòng đại diện của địa phương ở nước ngoài cần căn cứ vào các điều kiện, nhu cầu và nguồn lực cụ thể của từng địa phương, phù hợp với hoàn cảnh và có kiểm soát, không trùng lặp chức năng với cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài.

Thực tiễn hiện nay cho thấy các nước cũng chỉ đặt văn phòng của một số địa phương tại Việt Nam chứ không phải tất cả các bang, các địa phương của một quốc gia đều lập văn phòng tại Việt Nam. Công việc chính về thúc đẩy quan hệ hai quốc gia vẫn là công việc của Chính phủ, thông qua hệ thống cơ quan đại diện. Điều này đặt ra yêu cầu làm rõ cơ chế phối hợp và vai trò kiểm soát của Chính phủ, bảo đảm hoạt động của văn phòng đại diện địa phương không chồng chéo chức năng, không đi lệch định hướng đối ngoại chung.

Do đó, đại biểu nhất trí với dự thảo Nghị quyết quy định theo hướng cho phép triển khai thí điểm để địa phương mở văn phòng đại diện tại nước ngoài. Đồng thời, giao Chính phủ quy định cụ thể về tiêu chí, điều kiện, phạm vi hoạt động, cơ chế quản lý và báo cáo của địa phương khi mở văn phòng đại diện tại nước ngoài; xác định rõ vai trò hỗ trợ, hướng dẫn của cơ quan đại diện trong việc bảo đảm quản lý thống nhất về đối ngoại.

Vân Giang (t/h)

Nguồn Bắc Ninh: https://baobacninhtv.vn/xay-dung-co-che-ho-tro-doanh-nghiep-ung-pho-voi-phong-ve-thuong-mai-la-can-thiet-va-cap-bach-postid431930.bbg