Xử lý nợ xấu: Các trường hợp cố tình chây ì, cần tạo thành án lệ
Đó là một trong những kiến nghị của ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam xung quanh vấn đề xử lý nợ xấu.
Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho biết, mặc dù nợ xấu gộp giảm từ mức 6,3% vào năm 2021 xuống 4,5% vào cuối năm 2022 nhưng nợ xấu nội bảng đã tăng từ 1,49% lên 1,92% trong cùng thời gian. Theo ông, nguyên nhân nào khiến việc xử lý nợ xấu gặp nhiều khó khăn?
Một trong những vướng mắc chính trong việc xử lý nợ xấu là hành lang pháp lý cho hoạt động xử lý nợ còn chưa đồng bộ, thống nhất. Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu đã hỗ trợ tích cực, tạo cơ chế hiệu quả, đồng bộ trong xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa bảng cân đối của các tổ chức tín dụng, tuy nhiên, việc triển khai còn rất nhiều vướng mắc do xung đột pháp lý giữa các văn bản quy phạm pháp luật ngành ngân hàng với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Từ những quy định tại các luật hiện hành, một số quy định tại Nghị quyết 42 không áp dụng được trên thực tế, cần phải luật hóa mới xử lý được.
Chẳng hạn, các tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn trong việc thu giữ tài sản bảo đảm do chủ tài sản chống đối và không hợp tác nên phải chuyển sang tòa án các cấp xử lý. Cho đến nay, chưa có tổ chức tín dụng nào được áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp theo Nghị quyết 42.
Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm chưa được ưu tiên thanh toán để thu hồi nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo quy định tại Điều 12, Nghị quyết 42 do sự thiếu đồng bộ, chưa nhất quán giữa quy định tại Nghị quyết 42 với quy định của pháp luật về thuế và pháp luật về thi hành án dân sự.
Liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản, khi tổ chức tín dụng đưa tài sản bảo đảm là dự án bất động sản ra bán đấu giá và xác định được người trúng đấu giá, nhưng lại không thực hiện được thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho người nhận chuyển nhượng.
Nhiều thành viên trong hệ thống ngân hàng còn phản ánh nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định pháp luật khác, thưa ông?
Đúng vậy. Ví dụ như về tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ, Bộ Tài chính mới chỉ ban hành các tiêu chuẩn thẩm định giá tài sản, chưa có quy định cụ thể về tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ làm cơ sở cho các tổ chức thẩm định giá thực hiện, dẫn tới công tác định giá khoản nợ còn gặp nhiều khó khăn, bất cập.
Trong khi, giá trị thẩm định giá là căn cứ quan trọng để xác định giá mua bán khoản nợ xấu theo giá trị thị trường của VAMC và tổ chức tín dụng.
Hay vướng mắc liên quan đến hoạt động mua bán nợ, đó là khung pháp lý quản lý thị trường mua bán nợ chưa hoàn thiện, còn thiếu các quy định liên quan đến chứng khoán hóa các khoản nợ xấu. Bên cạnh đó, chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về cách thức xác định giá bán nợ.
Việc bán nợ dưới giá trị ghi sổ của khoản nợ/dưới dư nợ gốc của các tổ chức tín dụng gặp phải những đánh giá chưa thực sự tích cực từ phía các cơ quan thanh tra, kiểm toán. Ngoài ra, chưa có cơ chế ràng buộc sự phối hợp của bên nợ nên ngay cả khi việc mua bán khoản nợ đã diễn ra thành công, rủi ro đối với bên mua nợ vẫn lớn khi bên nợ không hợp tác.
Đặc biệt là những khó khăn trong việc nhận gán nợ tài sản bảo đảm là bất động sản, xử lý tài sản bảo đảm là chứng khoán trong giao dịch cầm cố với ngân hàng.
Theo ông, giải pháp tháo gỡ những khó khăn trên là gì?
Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi được Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 5 và dự kiến sẽ được thông qua tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV. Theo tôi, dự thảo Luật cần sửa đổi theo hướng tăng tính tự chủ cho các tổ chức tín dụng, phù hợp hơn với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động hiện nay của các tổ chức tín dụng.
Cần luật hóa các quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 nhằm tạo hành lang pháp lý và nâng cao tính hiệu quả trong công tác xử lý nợ xấu và các luật liên quan mật thiết đến hoạt động ngân hàng như Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Nhà ở (sửa đổi), Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi), Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) nhằm tạo cơ chế pháp lý thống nhất, đồng bộ, giúp các tổ chức tín dụng cho vay an toàn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, phát triển sản xuất - kinh doanh.
Tòa án Nhân dân Tối cao cần có văn bản hướng dẫn các tòa án cấp dưới trong việc xử lý các vướng mắc tranh chấp liên quan đến việc chủ tài sản bảo đảm tạo ra các tranh chấp giả tạo nhằm kéo dài việc xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng. Đối với các trường hợp cố tình chây ì, lẩn trốn, không xuất hiện, không hợp tác với cơ quan chức năng nhằm mục đích kéo dài thời gian xử lý nợ, trốn tránh nghĩa vụ, coi thường sự nghiêm minh của luật pháp, cần tạo thành án lệ về việc xét xử vắng mặt các đối tượng này; hoặc áp dụng các biện pháp rút gọn tại tòa để rút ngắn thời gian khởi kiện, nhanh chóng xử lý có kết quả thu hồi của khoản nợ.
Bên cạnh đó, Tòa án Nhân dân Tối cao cần phối hợp với Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và Bộ Công an sớm ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự.
Về phía Chính phủ, tôi đề xuất sớm cho phép các ngân hàng thương mại Nhà nước được tăng vốn điều lệ thông qua hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu từ nguồn lợi nhuận để lại sau trích lập các quỹ giai đoạn 2022-2023 nhằm gia tăng năng lực tài chính, dự phòng rủi ro trong bối cảnh nợ xấu tăng cao.
Bên cạnh đó, chỉ đạo các bộ, ngành liên quan tiếp tục rà soát lại những quy định liên quan đến ngành nghề, đối tượng được hưởng, các điều kiện vay vốn… tại Nghị định 31/2022/NĐ-CP và Thông tư 03/2022/TT-NHNN để có các điều chỉnh phù hợp với thực tiễn, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc triển khai thực hiện.
Bộ Tài chính cần phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các giao dịch trên thị trường chứng khoán và chuyển đổi các khoản nợ xấu thành chứng khoán để giao dịch công khai, minh bạch. Bên cạnh đó, cần ban hành hướng dẫn về định giá khoản nợ xấu.
Về phía Bộ Tư pháp, cần chỉ đạo Tổng cục Thi hành án rà soát những bản án thi hành còn tồn đọng, liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ xấu.
Liên quan đến Ngân hàng Nhà nước, cần sớm xây dựng khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động ngân hàng số, xác thực khách hàng điện tử - eKYC, cho vay theo phương thức điện tử. Theo đó, việc phê duyệt tín dụng thông qua các hệ thống phần mềm, số hóa, dưới các hình thức giao dịch điện tử. Đây là điều phù hợp với xu thế phát triển hiện nay, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng trong quá trình hoạt động và cho khách hàng vay vốn hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Ngân hàng Nhà nước cũng cần nghiên cứu kỹ luật về ngân hàng của các nước trong khu vực và trên thế giới để các quy định tại dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi phù hợp với đặc thù Việt Nam nhưng cũng phải tiệm cận và phù hợp thông lệ quốc tế. Đồng thời, rà soát một số dự thảo luật liên quan đến hoạt động ngân hàng đang sửa đổi hiện nay để tránh sự chồng chéo, không phù hợp với Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi.
Cần lưu ý những nội dung dự thảo Luật Giao dịch điện tử để đưa vào Luật Các tổ chức tín dụng nhằm thực hiện tốt chuyển đổi số, cho vay trên nền tảng công nghệ, thẩm định và quyết định cho vay trên dữ liệu lớn. Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn vướng mắc Nghị quyết 42, bổ sung một số quy định về xử lý nợ xấu vào Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi.