Xuất, nhập khẩu trước những thách thức mới
Xuất, nhập khẩu Việt Nam năm 2025 ghi dấu ấn tượng với dự kiến vượt mốc 900 tỷ USD. Song, trước dự báo về những khó khăn, thách thức mới của năm 2026, đòi hỏi Việt Nam phải quyết liệt thực thi các chính sách và giải pháp đột phá nhằm tăng trưởng xuất khẩu bền vững, nâng cao vị thế quốc gia trong mạng lưới thương mại toàn cầu.
Xuất nhập khẩu lập kỷ lục mới
Thông tin từ Bộ Công Thương, xuất, nhập khẩu Việt Nam năm 2025 lập mức kỷ lục mới, ước đạt 920 tỷ USD, đưa Việt Nam vào top 15 nước có quy mô thương mại lớn trên toàn cầu. Trong đó, xuất khẩu dự kiến đạt 470 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2024; nhập khẩu dự kiến đạt 448 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại năm 2025 tiếp tục nghiêng về xuất siêu với mức 22 tỷ USD. Những con số này là minh chứng hiệu quả trong điều hành chính sách của Chính phủ, sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, cũng như khả năng tham gia sâu của DN Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Phan Thị Thắng, động lực tăng trưởng xuất khẩu đến từ nhiều nhóm hàng chủ lực. Các mặt hàng công nghiệp như điện tử, máy tính, linh kiện, máy móc thiết bị tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt, trong khi nông, lâm, thủy sản phục hồi rõ nét với các sản phẩm thế mạnh như rau quả, sầu riêng, tôm hùm. Dệt may, gỗ và sản phẩm gỗ cũng ghi nhận mức tăng tích cực, phản ánh sự cải thiện của nhu cầu toàn cầu và khả năng nắm bắt cơ hội thị trường của DN Việt. Ngược lại, tăng trưởng nhập khẩu, động lực chính đến từ nhu cầu nhập khẩu đối với nhóm nhóm hàng thuộc lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao.

Bốc xếp hàng xuất khẩu tại cảng Sài Gòn. Ảnh: Phạm Hùng
Phân tích về những yếu tố tác động đến tăng trưởng của xuất nhập khẩu, TS Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam đánh giá, kết quả này được hỗ trợ bởi 2 yếu tố quan trọng. Thứ nhất là sự phục hồi của các nền kinh tế lớn như: Mỹ, châu Âu, Nhật Bản. Các nền kinh tế này đã và đang triển khai nhiều biện pháp phục hồi, đặc biệt thông qua chính sách tiền tệ có phần được nới lỏng nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và nhờ đó nhu cầu nhập hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam tăng lên. Thứ hai, những tháng cuối năm luôn là thời cao điểm mua sắm tại Mỹ, EU và Nhật Bản, cùng nhiều nền kinh tế là bạn hàng thương mại lớn của Việt Nam. Nhu cầu phục vụ mùa Giáng sinh và năm mới tăng mạnh, kéo theo sức mua lớn đối với các mặt hàng như dệt may, da giày, nội thất, hàng điện tử, thực phẩm, nông, lâm sản vốn là những những nhóm hàng Việt Nam có nhiều thế mạnh.
Thương mại toàn cầu khó lường, nhiều rào cản nội tại
Nhiều chuyên gia, nhà quản lý nhận định, xuất khẩu Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức mới. Trên bình diện quốc tế, môi trường thương mại toàn cầu đang thay đổi nhanh và khó lường, sự phục hồi kinh tế thế giới chậm, xung đột địa chính trị, phân mảnh thương mại và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng làm thu hẹp dư địa tăng trưởng truyền thống. Đặc biệt, các tiêu chuẩn mới về phát triển bền vững, giảm phát thải, truy xuất nguồn gốc, trách nhiệm xã hội và “xanh hóa” chuỗi cung ứng đang trở thành điều kiện bắt buộc. Điều này tạo ra sức ép lớn, đặc biệt đối với các DN xuất khẩu vừa và nhỏ.
Theo Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) Trần Thanh Hải, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam còn tồn tại nhiều yếu tố chưa bền vững. Tăng trưởng xuất khẩu vẫn phụ thuộc đáng kể vào khu vực FDI; khu vực DN trong nước chưa tham gia sâu vào các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu; nhiều ngành hàng còn phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu, khiến sản xuất và xuất khẩu dễ bị tổn thương trước cú sốc bên ngoài và nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng. Quan ngại hơn, năng lực thiết kế, marketing quốc tế, xây dựng thương hiệu còn hạn chế, khả năng đáp ứng đồng bộ các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn xanh, tiêu chuẩn thị trường cao cấp của không ít DN vẫn còn khó khăn.
Hay như vấn đề về thị trường, hiện Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm đến 32,3% tỷ trọng xuất khẩu, trong khi đó, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất, chiếm khoảng 40% tỷ trọng nhập khẩu. Thực tế này đã chỉ rõ thách thức lớn về sự phụ thuộc quá mức vào 2 thị trường truyền thống Mỹ và Trung Quốc. Ngoài ra, tỷ trọng lớn của các DN FDI (chiếm 70 - 75%) trong kim ngạch xuất khẩu, dẫn đến tỷ lệ giá trị gia tăng được tạo ra tại Việt Nam còn thấp, chủ yếu ở khâu lắp ráp cuối cùng, trong khi các khâu giá trị cao như thương hiệu, tiếp thị và chuỗi cung ứng chưa được hoàn thiện. Cán cân thương mại cũng mất cân đối với tình trạng xuất siêu lớn sang Mỹ và nhập siêu quá lớn từ Trung Quốc.
Tăng trưởng theo chiều sâu, cân bằng cán cân thương mại
Để ứng phó với nhiều biến động và sự thay đổi xu hướng toàn cầu, ông Trần Thanh Hải nhấn mạnh yêu cầu chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, hiệu quả và bền vững, gắn với nâng cao giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ và tỷ lệ nội địa hóa. Cụ thể, Việt Nam cần tập trung vào các giải pháp tạo động lực tăng trưởng mới. Phát triển các nền công nghiệp nền tảng mang tính cốt lõi, có giá trị bền vững, phát triển mặt hàng nông sản. Chủ động nguồn nguyên liệu bằng cách đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, làm chủ công nghệ để gia tăng giá trị nội địa.
Cùng với đó, đa dạng hóa thị trường thông qua tích cực xúc tiến, tìm kiếm và ký kết thêm các Hiệp định thương mại tự do (FTA) để tạo ra thị trường mới; đẩy mạnh các phương thức thương mại mới như thương mại điện tử xuyên biên giới; đổi mới công tác xúc tiến thương mại gắn với xây dựng thương hiệu; gắn thương hiệu với truy xuất nguồn gốc (nông sản) và xuất xứ hàng hóa (công nghiệp), gắn với các tiêu chuẩn xanh và số hóa. Ngoài ra, việc tối ưu hóa quy trình logistics để đưa hàng hóa đến người tiêu dùng với chi phí thấp nhất, thời gian nhanh nhất vô cùng quan trọng nhằm thúc đẩy việc các DN tiến thẳng ra thị trường nước ngoài.
Đề cập về giải pháp cân bằng cán cân thương mại, TS Lê Quốc Phương - nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (Bộ Công Thương) Việt Nam cho rằng: cần thay đổi chủng loại sản phẩm nhập khẩu theo hướng tăng cường nhập khẩu nguyên liệu, linh kiện chất lượng cao, công nghệ mới để phục vụ sản xuất nội địa và xuất khẩu. Đồng thời, cần giảm dần sự phụ thuộc vào các sản phẩm tiêu dùng hoàn chỉnh và hàng hóa có giá trị gia tăng thấp, chuyển sang nhập khẩu sản phẩm có hàm lượng công nghệ, tri thức cao để nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe hơn của thế giới và thúc đẩy sản xuất bền vững, xanh hóa nền kinh tế.
TS Nguyễn Thị Thu Trang - chuyên gia pháp luật và hội nhập kinh tế quốc tế khẳng định, việc đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững về môi trường, lao động, trách nhiệm xã hội và quản trị DN không còn là lựa chọn, mà đã trở thành điều kiện bắt buộc đối với hàng hóa xuất khẩu. Do đó, chủ động thích ứng với các chuẩn mực bền vững sẽ giúp DN Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm rủi ro thương mại và tạo nền tảng cho tăng trưởng dài hạn. Về phía Nhà nước, cần có các giải pháp hỗ trợ như hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng logistics, thúc đẩy chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. Đây là những yếu tố then chốt để duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững.
Với mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2026 tăng hơn 8%, Bộ Công Thương đặt trọng tâm làm mới các động lực truyền thống, đồng thời khai thác mạnh các kênh thương mại hiện đại. Song song đó, Bộ triển khai chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2026 - 2030 gắn chặt với yêu cầu xanh hóa và số hóa. Đây không còn là lựa chọn mà trở thành điều kiện bắt buộc để hàng hóa Việt Nam thâm nhập các thị trường cao cấp như EU và Mỹ, đòi hỏi sự chuyển đổi đồng bộ từ sản xuất nguyên liệu, chế biến đến logistics.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Phan Thị Thắng
Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/xuat-nhap-khau-truoc-nhung-thach-thuc-moi.946666.html












