Bài phát biểu của Chủ tịch UBND tỉnh Trần Duy Đông tại kỳ họp thứ thứ Hai, HĐND tỉnh khóa XIX
Tại Kỳ họp thứ Hai, HĐND tỉnh khóa XIX diễn ra ngày 10/12, đồng chí Trần Duy Đông - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đã trình bày bài phát biểu quan trọng, đánh giá toàn diện những kết quả nổi bật thời gian qua; đồng thời chỉ rõ các điểm nghẽn cần được tháo gỡ và đề xuất những cơ hội, giải pháp cụ thể nhằm tạo đột phá cho phát triển trong giai đoạn tới. Bài phát biểu thể hiện quyết tâm xây dựng Phú Thọ trở thành tỉnh phát triển năng động, bền vững, bắt nhịp xu thế mới của thời đại. Báo và PT-TH Phú Thọ trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu

Đồng chí Trần Duy Đông - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh.
Kính thưa các đồng chí trong Thường trực Tỉnh ủy!
Kính thưa Chủ tọa kỳ họp!
Thưa các vị đại biểu HĐND tỉnh!
Thưa toàn thể cử tri và Nhân dân trong tỉnh!
Trước hết, thay mặt UBND tỉnh, tôi trân trọng cảm ơn HĐND tỉnh đã cơ bản đồng tình với các báo cáo của UBND tỉnh về kinh tế - xã hội trình tại Kỳ họp. Theo chương trình Kỳ họp và được sự đồng ý của Chủ tọa kỳ họp, sau đây, thay mặt UBND tỉnh, tôi trân trọng báo cáo để làm rõ thêm một số nội dung chủ yếu về tình hình, kết quả phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, giai đoạn 2021 - 2025 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2026, giai đoạn 2026 - 2030; các ý kiến thảo luận tại Tổ, tại Hội trường; các vấn đề cử tri và Nhân dân quan tâm.
1. Về bối cảnh, tình hình, cơ hội, thách thức đối với công tác điều hành phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2021 - 2025 và năm 2025
Tỉnh Phú Thọ thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 và năm 2025 trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực và trong nước có nhiều biến động; nhiều khó khăn, thách thức chưa có tiền lệ, đan xen cùng thuận lợi và cơ hội phát triển.
Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến bất định, rủi ro, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược; bất ổn chính trị, xung đột quân sự diễn ra ở một số khu vực, trong đó có khu vực ASEAN. Kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm, căng thẳng thương mại gia tăng, thị trường tài chính, tiền tệ, giá vàng, xăng dầu, nguyên vật liệu, hàng hóa biến động mạnh; nhu cầu tiêu dùng suy giảm tại một số khu vực, trong có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế, xã hội, hậu quả kéo dài nhiều năm. Ở trong nước, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Các đột phá chiến lược về thể chế - pháp luật, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực tiếp tục được tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt; trong đó ban hành mới nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo đột phá cho các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu), và thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới (khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế tri thức,...).
Đặc biệt, tổ chức bộ máy của Hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã tiếp tục được sắp xếp, sáp nhập quyết liệt bằng những quyết sách lịch sử, có tầm vóc chiến lược, kiến tạo không gian, cơ hội phát triển dài hạn, bền vững cho các địa phương và cho đất nước.
Cùng với cả nước sau sáp nhập, tỉnh Phú Thọ bước vào giai đoạn phát triển mới với quy mô và lợi thế, tiềm năng lớn hơn về không gian địa lý, hành chính, kinh tế, xã hội, dân cư và mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Tỉnh có diện tích tự nhiên đứng thứ 15, dân số đứng thứ 11, quy mô kinh tế đứng thứ 6 trong 34 tỉnh, thành cả nước; tiếp giáp với 7 tỉnh, thành phố, trong đó có thành phố Hà Nội và thuộc vùng Thủ đô, nằm trên các hành lang kinh tế lớn; kế thừa và hội tụ đầy đủ, toàn diện lịch sử, văn hóa, nguồn lực, tiềm năng, động lực và dư địa phát triển của ba tỉnh Vĩnh Phúc - Phú Thọ - Hòa Bình trước đây; kết hợp, bổ sung cho nhau tạo thành chuỗi giá trị liên hoàn, đầy triển vọng và cơ hội cho sự phát triển bứt phá, bền vững.
Tuy nhiên, cơ hội và triển vọng cũng đi cùng những thách thức đối với công tác chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế - xã hội sau hợp nhất tỉnh, địa bàn rộng hơn: Kết cấu hạ tầng còn phân mảnh, chia cắt, nhất là hạ tầng giao thông chưa đồng bộ. Chất lượng tăng trưởng, thu ngân sách chưa thực sự bền vững. Trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực giữa các khu vực có sự chênh lệch lớn. Nhiều tồn tại từ giai đoạn trước sáp nhập, cần tiếp tục tập trung giải quyết, song song với việc đẩy mạnh tháo gỡ vướng mắc phát sinh trong thực tiễn vận hành chính quyền địa phương 2 cấp như: Khối lượng công việc tăng đột biến, cấp cơ sở được phân cấp nhiều thẩm quyền, nhiều nhiệm vụ hơn (1005 thẩm quyền, 49 thẩm quyền mới), trong khi trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức còn chưa đáp ứng yêu cầu; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc chưa đồng đều, một số địa phương còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa; năng lực thực thi ở một số cơ sở còn yếu, thiếu tính chủ động, còn lúng túng trong thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, phải thực hiện rà soát một khối lượng văn bản quy phạm pháp luật của 03 tỉnh trước sáp nhập (trong 6 tháng phải hoàn thành rà soát, ban hành mới 1.367 văn bản QPPL; 407 Nghị quyết của HĐND 03 tỉnh trước đây; 935 Quyết định của UBND tỉnh; 35 Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh ); ban hành mới các cơ chế, chính sách bảo đảm đồng bộ, thực hiện thống nhất trên địa bàn tỉnh từ ngày 01/01/2026.
Năm 2025 cũng là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025; là năm diễn ra nhiều sự kiện lớn của tỉnh; đất nước có sự đổi mới mạnh mẽ trên các lĩnh vực. Đi cùng với đó là những khó khăn nội tại của kinh tế - xã hội trong nước, tác động bất lợi, phức tạp của dịch bệnh, của thời tiết cực đoan, thiên tai, bão lũ.
Tất cả đã tạo ra thách thức, áp lực không nhỏ cho việc hoàn thành các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2025, góp phần vào kết quả phát triển chung của giai đoạn 2021 - 2025.
2. Về các kết quả đạt được
Dưới sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, trực tiếp, thường xuyên là Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy, đứng đầu là đồng chí Bí thư Tỉnh ủy; sự đồng hành, phối hợp kịp thời, hiệu quả của HĐND tỉnh và các cơ quan trong hệ thống chính trị; sự điều hành linh hoạt, quyết liệt của UBND tỉnh; sự cố gắng, nỗ lực của các sở, ngành, các địa phương; cùng sự ủng hộ tích cực của cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư và Nhân dân trong tỉnh; chúng ta đã đạt được mục tiêu tổng quát của giai đoạn 2021 - 2025, với nhiều kết quả tích cực, toàn diện, hết sức ấn tượng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội trong năm 2025, nổi bật là:
Một là, kinh tế phục hồi và duy trì đà tăng trưởng tích cực. (i) Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân ước đạt 7,6%/năm, cao hơn bình quân chung của cả nước (6,3%); trong đó, tăng trưởng kinh tế năm 2025 đạt 10,52%, đứng thứ 4 toàn quốc, thứ nhất Vùng Trung du và miền núi phía Bắc, vượt mục tiêu tăng trưởng Chính phủ giao là 10%; vượt chỉ tiêu HĐND tỉnh giao là 10,3%. (ii) Quy mô kinh tế năm 2025 ước đạt 412,4 nghìn tỷ đồng, tăng 15,56% so năm 2024, xếp thứ 6/34 địa phương. (iii) Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, chiếm khoảng 87,1%; giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản, chiếm khoảng 12,9% (so với cơ cấu kinh tế năm 2020 lần lượt là 82,7% và 17,3%).
Hai là, sản xuất công nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò động lực then chốt của tăng trưởng kinh tế, chiếm tỷ trọng 55,4% cơ cấu kinh tế. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp năm 2025 đạt 15,4%; sản lượng sản xuất hầu hết các sản phẩm chủ lực tăng khá so với cùng kỳ, đặc biệt một số sản phẩm tăng rất cao so với năm 2024 như: máy tính xách tay tăng 32,3%; linh kiện điện tử tăng 21,5%; gạch ốp lát tăng 19,3%; điện sản xuất tăng 33,9%.... Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 36,8 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2024.
Ba là, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2025 dự kiến đạt 57.409 tỷ đồng, đạt 127,5% dự toán HĐND tỉnh giao, bằng 136,6% so với số thực hiện năm 2024; cả giai đoạn 2021 - 2025 đạt hơn 252,5 nghìn tỷ đồng, bằng 101,2% so mục tiêu.
Bốn là, kết quả giải ngân vốn đầu tư công hàng năm luôn nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước; trong đó kết quả thực hiện năm 2025 là hết sức ấn tượng trong điều kiện nhiều thách thức sau sáp nhập tỉnh, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp; áp lực giải ngân là rất lớn với kế hoạch vốn đã giao là 36,5 nghìn tỷ đồng; trong đó Thủ tướng Chính phủ giao là 18,727 nghìn tỷ đồng.
Ước giải ngân hết năm đạt khoảng 95% tổng vốn kế hoạch năm và đạt 140% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao.
Năm là, thu hút vốn đầu tư FDI năm 2025 đạt 1,51 tỷ USD (trong đó tăng vốn 50%), bằng 143% so kế hoạch, tăng 64% so với năm 2024; vốn DDI đạt 260,488 nghìn tỷ đồng, gấp 3,6 lần so với năm 2024. Đã có khoảng 4.546 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 44,2% so với cùng kỳ và có gần 1.000 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 22% so với năm 2024; đến nay toàn tỉnh có khoảng 41.870 doanh nghiệp. Tổng vốn toàn xã hội huy động ước đạt 320 nghìn tỷ đồng, tăng 41,7 nghìn tỷ đồng so năm 2024; tổng dư nợ cho vay đạt 355,9 nghìn tỷ đồng, tăng 12,6% so năm 2024.
(Ấn tượng là vốn đầu tư DDI đăng ký đạt 10 tỷ đô với một số dự án quy mô lớn. Việc thu hút nguồn lực FDI, DDI, phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt kết quả tốt đã phản ánh kết quả rất tích cực trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh của tỉnh).
Sáu là, kết cấu hạ tầng trọng điểm tiếp tục được đầu tư hoàn thiện, nhất là hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, hạ tầng cung cấp điện, nước; hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp với 11 khu công nghiệp được chấp thuận đầu tư/thành lập mới (đến nay có 17 KCN hoạt động, tỷ lệ lấp đầy đạt 49%; có 67 cụm công nghiệp được thành lập, trong đó có 35 cụm đã hoạt động). Nhiều dự án tồn đọng, kéo dài nhiều năm được xử lý quyết liệt, đạt kết quả tích cực.
Đã khánh thành, khởi công 07 dự án, công trình chào mừng kỷ niệm 80 năm Quốc khánh. Cùng cả nước, tỉnh Phú Thọ sẽ khởi công, khánh thành 04 công trình, dự án chào mừng Đại hội XIV của Đảng trên địa bàn tỉnh ngày 19/12/2025, trong đó khởi công 03 công trình: (i) Ga Phú Thọ tại phường Phong Châu, thuộc Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; (ii) Xây dựng các nút giao IC2 và IC5 tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai tại phường Phúc Yên và xã Tam Dương; (iii) Công trình căn hộ du lịch, trung tâm hội nghị Lynn Times thuộc Dự án Trung tâm Hội nghị quốc tế, khách sạn, biệt thự du lịch nghỉ dưỡng Wyndham Thanh Thủy tại xã Thanh Thủy. Khánh thành 01 dự án là Dự án Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mở rộng (Tổ máy số 2) tại phường Hòa Bình.
Bảy là, các hoạt động văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực; chất lượng giáo dục đại trà tiếp tục đạt kết quả cao, năm học 2024 - 2025 tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT đạt 99,72%; công tác chăm sóc sức khỏe Nhân dân được tăng cường, xã hội hóa lĩnh vực y tế được đẩy mạnh. Lao động việc làm, an sinh xã hội được chăm lo, đời sống Nhân dân tiếp tục được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm còn 2,75%; trong đó tỷ lệ hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn bình quân giảm từ 4,0 - 4,5%. Giải quyết kịp thời chế độ, chính sách theo Nghị định 178 cho 5.448 công chức, viên chức.
Hoàn thành 100% mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát. Lũy kế hoàn thành 4.460 căn nhà ở xã hội, đạt 115% so với kế hoạch (3.877 căn); dự kiến khởi công 11 dự án NOXH trong năm 2025 (08 dự án đã khởi công); ước hoàn thành 2.913 căn, vượt chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao.
Tám là, cơ cấu tổ chức, bộ máy các cơ quan chuyên môn, đơn vị sự nghiệp công lập được sắp xếp tinh gọn. Tăng cường, điều động, biệt phái cho cấp xã 627 công chức, viên chức, đạt 155% so kế hoạch (Tỉnh Phú Thọ được Bộ Nội vụ đánh giá là một trong các địa phương đi đầu về nội dung này).
Đặc biệt, đã cơ bản hoàn thành và trình HĐND tỉnh ban hành hệ thống văn bản mới thay thế hệ thống văn bản do HĐND, UBND 3 tỉnh đã ban hành, để thực hiện thống nhất trên địa bàn tỉnh. Từ 01/01/2026, hệ thống pháp luật của tỉnh được "làm sạch", đồng bộ, không còn văn bản hết hiệu lực, chồng chéo, mâu thuẫn (1.367 văn bản, trong đó có 407 Nghị quyết của HĐND 03 tỉnh trước đây, 935 Quyết định của UBND tỉnh, 35 Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh).
Chín là, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được tích cực triển khai, thúc đẩy chính quyền số, kinh tế số, xã hội số với kết quả bước đầu quan trọng. Chỉ số đổi mới sáng tạo địa phương (PII) đứng thứ 15/34 địa phương cả nước.
Mười là, quốc phòng được củng cố và giữ vững. Lực lượng vũ trang tỉnh tiếp tục được xây dựng vững mạnh, toàn diện; thực hiện hiệu quả nhiệm vụ cứu nạn cứu hộ, khắc phục hậu quả thiên tai. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
3. Về nguyên nhân của các thành tựu đã đạt được
Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và giai đoạn 2021 - 2025 là kết quả của sự đoàn kết, thống nhất, quyết tâm cao, chủ động thích ứng nhanh với yêu cầu đổi mới và sự quyết liệt, hành động thông suốt của cả hệ thống chính trị; là sự nỗ lực, cố gắng khắc phục khó khăn của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; là kết quả của sự quan tâm, ủng hộ của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; và là sự kế thừa quá trình tích lũy, phấn đấu thực hiện trong nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ qua.
Thay mặt UBND tỉnh, tôi xin trân trọng cảm ơn Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, các đại biểu HĐND tỉnh; các ngành, các địa phương; cử tri và Nhân dân trong tỉnh đã luôn quan tâm ủng hộ, tạo điều kiện, giúp đỡ UBND tỉnh vượt qua khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2025 và giai đoạn 2021 - 2025.
4. Về một số tồn tại, hạn chế và thách thức
Mặc dù giai đoạn 2021 - 2025 và năm 2025 đã chứng kiến nhiều kết quả tích cực và thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế - xã hội, UBND tỉnh thẳng thắn nhìn nhận còn tồn tại một số hạn chế, bất cập, và các thách thức như: Tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách chưa bền vững; hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu; hoạt động của chính quyền 2 cấp, nhất là cấp cơ sở còn một số khó khăn, vướng mắc; tình trạng khan hiếm về nguồn vật liệu đất đắp; quản lý về đất đai, khoáng sản ở một số địa phương chưa chặt chẽ; ô nhiễm môi trường chưa được kiểm soát hiệu quả,... (như đã nêu trong các báo cáo của UBND tỉnh và ý kiến của các đại biểu HĐND tỉnh tại Kỳ họp), đang tiếp tục đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với UBND tỉnh, các ngành, các địa phương trong việc tập trung xây dựng, thực hiện đồng bộ các giải pháp hiệu quả trên các lĩnh vực.
Qua báo cáo của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, báo cáo thẩm tra của các Ban của HĐND tỉnh, thảo luận tại Tổ đại biểu và các phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp ngày hôm qua; các vị đại biểu HĐND tỉnh, cử tri và Nhân dân trong tỉnh đã có nhiều ý kiến đánh giá, chia sẻ, đóng góp sâu sắc, tâm huyết, sát thực tiễn với tinh thần xây dựng, trách nhiệm cao về tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh. UBND tỉnh xin trân trọng cảm ơn, lắng nghe và nghiêm túc tiếp thu trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh. Sau đây, thay mặt UBND tỉnh, tôi xin làm rõ hơn 6 nội dung mà nhiều đại biểu, cử tri và Nhân dân quan tâm, cụ thể như sau:
a) Vấn đề thứ nhất: Về Quy hoạch tỉnh Phú Thọ và tích hợp quy hoạch các xã, phường sau hợp nhất tỉnh
(i) Về quy hoạch tỉnh:
Quy hoạch tỉnh là nhiệm vụ chiến lược, đặc biệt quan trọng, quyết định đến khả năng phát huy giá trị cộng hưởng tiềm năng, lợi thế của tỉnh và định hình vị thế mới của tỉnh Phú Thọ sau sáp nhập trên bản đồ phát triển quốc gia (chất lượng quy hoạch có vai trò quan trọng trong việc thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước; quy hoạch tốt, dự án tốt, nhà đầu tư tốt).
Ngay sau khi tỉnh Phú Thọ mới chính thức hoạt động, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch tổ chức lập điều chỉnh Quy hoạch tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; ban hành các quyết định thành lập Ban Chỉ đạo, phân công, phân nhiệm cụ thể cho các ngành, các cơ quan; và đã tổ chức lựa chọn liên doanh tư vấn lập quy hoạch trong nước và nước ngoài.
Quan điểm chỉ đạo là: (i) Kế thừa các nội dung vẫn còn phù hợp trong 03 quy hoạch của 03 địa phương trước đây (nhưng không phải cộng cơ học 03 quy hoạch tỉnh trước sáp nhập, mà có nghiên cứu, bổ sung các nội dung quy hoạch mới phù hợp với thực tiễn không gian phát triển mới của tỉnh ). (ii) Xác định vai trò động lực và chức năng phân vùng phù hợp với tầm nhìn phát triển dài hạn, tư duy chiến lược; không gian tích hợp, liên kết vùng, đồng bộ, tổng thể, không manh mún; làm rõ các hành lang kinh tế (như các hành lang kinh tế mới gắn với cao tốc Việt Trì - Hòa Bình, đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng,...), vùng động lực (ví dụ như vùng động lực mới gắn liền với cả khu vực Vĩnh Yên và Việt Trì); quy chiếu cụ thể cho từng giai đoạn phát triển; có mục tiêu, định hướng và định hình cụ thể cho từng khu vực, ngành, lĩnh vực (công nghiệp, công nghệ cao khu vực Vĩnh Phúc; công nghiệp cơ khí, công nghiệp phụ trợ khu vực Phú Thọ; du lịch nghỉ dưỡng cao cấp, nông nghiệp xanh, năng lượng tái tạo khu vực Hòa Bình). Đến nay các công việc đã được thực hiện một cách khoa học, bài bản và cơ bản hoàn thành; đã có các phương án quy hoạch cụ thể.
Ngay sau Kỳ họp HĐND tỉnh, UBND tỉnh sẽ tổ chức Hội nghị chuyên đề về Quy hoạch tỉnh để đánh giá, lựa chọn phương án quy hoạch; tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, địa phương trong tỉnh và các bộ, ngành Trung ương; đồng thời tổ chức Hội thảo khoa học để tiếp thu ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học; báo cáo Tỉnh ủy, HĐND tỉnh tại kỳ họp chuyên đề tháng 12/2025. Phấn đấu hoàn thành Quy hoạch tỉnh, trình Thủ tướng Chính phủ trước 31/12/2025.
(ii) Về tích hợp quy hoạch các xã, phường
Các xã, thị trấn trước khi sáp nhập cơ bản đã có quy hoạch chung xã, quy hoạch chung đô thị được phê duyệt. Sau sáp nhập các xã, phường cần có quy hoạch tổng thể để làm cơ sở quản lý, thu hút đầu tư. Tuy nhiên, công tác quy hoạch chung xã, phường cần có thời gian và nguồn lực thực hiện; trong khi chưa điều chỉnh thì tiếp tục có hiệu lực cho đến khi điều chỉnh. Mặt khác, hiện nay hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn đang được điều chỉnh, hoàn thiện; và việc thực hiện quy hoạch xã, phường phải được thực hiện trên cơ sở Quy hoạch tỉnh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Vì vậy, trước mắt các xã, phường tiếp tục căn cứ theo các quy hoạch xây dựng để thu hút đầu tư (quy hoạch vùng huyện, liên huyện, quy hoạch chung thành phố, thị xã, thị trấn, quy hoạch chung xã đã được phê duyệt trước khi hợp nhất 03 tỉnh). Riêng đối với 19 xã (sau sáp nhập) tại khu vực tỉnh Phú Thọ (cũ) chưa có quy hoạch chung xã, UBND tỉnh đồng ý chủ trương để UBND các xã làm chủ đầu tư lập đồ án quy hoạch chung xã và giao Sở Tài chính hướng dẫn về nguồn vốn thực hiện trên quan điểm ngân sách tỉnh hỗ trợ. Đề nghị các xã tập trung lập nhiệm vụ quy hoạch trình Sở Xây dựng thẩm định, trình UBND tỉnh phê duyệt làm cơ sở lập đồ án quy hoạch trong 6 tháng đầu năm 2026.
b) Vấn đề thứ hai: Về sắp xếp, xử lý tài sản công dôi dư
Đây là nhiệm vụ rất quan trọng, thường xuyên được Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tỉnh ủy, UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo. Việc xử lý tài sản công là vấn đề phức tạp; khối lượng công việc là rất lớn, cần giải quyết từng bước với lộ trình cụ thể, nhưng với tinh thần khẩn trương, quyết liệt, đúng quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, tránh thất thoát, lãng phí, tiêu cực.
Vừa qua rà soát, toàn tỉnh 1.324 cơ sở nhà, đất dôi dư và đã hoàn thành xử lý 741 cơ sở. Phương án đã xử lý cơ bản là điều chuyển cho các cơ quan quản lý nhà nước các cấp để bố trí trụ sở làm việc, bảo đảm hoạt động. Hiện nay còn 583 cơ sở nhà, đất dôi dư phải tiếp tục sắp xếp.
UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo Sở Tài chính tiếp tục đề xuất sắp xếp các cơ sở nhà, đất dôi dư theo định hướng của Trung ương, của Tỉnh ủy là ưu tiên bố trí cho trụ sở các cơ quan quản lý nhà nước, cơ sở y tế, cơ sở giáo dục, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng, sau đó mới điều chuyển cho các Trung tâm phát triển quỹ đất, các tổ chức để đấu giá theo quy định.
c) Vấn đề thứ ba: Về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tăng thu bền vững
Các cử tri và đại biểu đặt vấn đề này là rất đúng thực tiễn. Hiện nay các nguồn thu của tỉnh chưa bền vững, trong đó có 02 nguồn: (i) Thu từ tiền sử dụng đất chiếm 28% nguồn thu; (ii) Thu từ khu vực FDI (từ các nhà đầu tư lớn như Toyota, Honda,...) chiếm 30% nguồn thu.
Trong thời gian tới, để đa dạng hóa nguồn thu, tăng thu bền vững, UBND tỉnh sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, doanh nghiệp; thúc đẩy thu hút đầu tư trong và ngoài nước và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh, thông qua 04 việc:
Một là, tập trung cắt giảm 30% thời gian thực hiện TTHC, 30% chi phí tuân thủ TTHC liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Triển khai cơ chế đặc biệt "luồng xanh" hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư chiến lược, các dự án lớn, phù hợp với định hướng thu hút đầu tư của tỉnh (điện, điện tử, công nghệ cao, bán dẫn, cơ khí chế tạo, năng lượng tái tạo).
Hai là, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Chuyển từ "đào tạo theo năng lực sẵn có" sang đào tạo theo nhu cầu thị trường; từ đào tạo rời rạc sang xây dựng hệ sinh thái nhân lực mở, có liên thông và hợp tác giữa các chủ thể. Đẩy mạnh thu hút con em người Phú Thọ về làm việc tại tỉnh thông qua các chính sách ưu đãi (như nhà ở xã hội,...) tạo điều kiện ổn định giữ chân nhân lực lâu dài.
Ba là, đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại.
Bốn là, nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư, nhất là xúc tiến đầu tư tại chỗ.
Năm là, bổ sung các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (hiện chiếm 96% số doanh nghiệp), nhất là hỗ trợ tiếp cận vốn vay ưu đãi, đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp thông tin thị trường, kết nối với các doanh nghiệp FDI.
d) Vấn đề thứ tư: Về quản lý đất đai, khai thác khoáng sản, kiểm soát ô nhiễm môi trường
- Về quản lý đất đai: Đất đai là nguồn lực quan trọng và là tư liệu sản xuất đặc biệt. Để quản lý, sử dụng, khai thác, phát huy hiệu quả nguồn lực, tránh lãng phí, UBND tỉnh sẽ tập trung làm tốt những việc sau:
Một là, khẩn trương hoàn thành Đề án đo đạc bản đồ địa chính, lập hồ sơ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai trên địa bàn tỉnh, để quản lý đất đai đồng bộ, hiệu quả và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân về lâu dài.
Hai là, chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường, UBND cấp xã rà soát, kiểm tra, giải quyết ngay các kiến nghị của cử tri về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh theo quy định pháp luật hiện hành.
Ba là, chỉ đạo cơ quan chuyên môn sớm hoàn thành xây dựng, trình HĐND tỉnh ban hành Bảng giá đất năm 2026, làm căn cứ xác định tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế, phí, lệ phí, tiền bồi thường khi thu hồi đất và giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất; bảo đảm công khai, minh bạch, thu đúng, thu đủ, và bảo đảm cạnh tranh trong thu hút đầu tư của tỉnh.
- Về lĩnh vực khoáng sản: Đây là lĩnh vực nhạy cảm. Thời gian qua, nhu cầu về vật liệu xây dựng, khoáng sản đất đắp, san nền cho các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu đô thị là rất lớn. UBND tỉnh đã chỉ đạo áp dụng các quy định mới của Trung ương về tháo gỡ khó khăn trong thủ tục cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm III làm vật liệu xây dựng, khai thác khoáng sản nhóm IV để phục vụ thi công các công trình, dự án. Quan điểm chỉ đạo thực hiện là hiệu quả, minh bạch, công khai, đúng quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu nhưng không gây thất thoát trong thu ngân sách.
UBND tỉnh đã ban hành quy định cụ thể về thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù theo Nghị quyết 66.4 của Chính phủ để giải quyết khó khăn về khoáng sản đất đắp cho các công trình, dự án trên địa bàn tỉnh.
Trong đó: Ngoài các dự án đầu tư công, PPP, còn cho phép áp dụng chính sách đối với các dự án đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp; dự án nhà ở xã hội; dự án đầu tư khu đô thị mới, khu du lịch nghỉ dưỡng sinh thái có quy mô diện tích từ 50ha trở lên; các công trình, dự án khẩn cấp, cấp bách cần triển khai ngay để tạo động lực phát triển kinh tế, thu ngân sách, hoàn thiện hạ tầng giao thông liên vùng, an sinh xã hội và phòng chống thiên tai.
Trong thời gian tới, UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo tăng cường triển khai phương án quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường trên địa bàn tỉnh; thực hiện rà soát, điều chỉnh, bổ sung các khu vực cấm, tạm cấm khai thác khoáng sản; chỉ đạo cấp phép thăm dò, khai thác, thu hồi khoáng sản và thực hiện đấu giá quyền khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh theo các kế hoạch đã được duyệt, bảo đảm chặt chẽ theo quy định pháp luật.
- Về quản lý ô nhiễm môi trường: UBND tỉnh sẽ tiếp tục chỉ đạo tổ chức giải quyết các vấn đề môi trường; trong đó tập trung xử lý rác thải, nước thải, ô nhiễm môi trường tại các cụm công nghiệp, làng nghề, điểm tập kết, bãi chôn lấp chất thải, thông qua: (i) Quy hoạch khu xử lý chất thải rắn; (ii) Tăng cường năng lực thu gom, và xử lý chất thải tại khu du lịch, đô thị, nông thôn; tạo chuyển biến căn bản trong công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh; (iii) Thực hiện việc di dời các nhà máy, công trình ô nhiễm ra khỏi đô thị theo lộ trình (09 dự án tại khu vực Việt Trì; trước mắt ngay trong năm 2026 sẽ di dời Nhà máy hóa chất Việt Trì ra khỏi khu vực đô thị Việt Trì).
đ) Vấn đề thứ năm: Về tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong vận hành chính quyền địa phương 2 cấp
Thời gian qua, việc vận hành mô hình chính quyền địa phương 02 cấp đã cơ bản thông suốt, kịp thời cung cấp các dịch vụ công cho người dân theo tinh thần gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, như nhiều đại biểu, cử tri còn băn khoăn việc thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp, nhất là tại cấp xã còn một số khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục tập trung, tích cực giải quyết. Thời gian tới, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ:
Thứ nhất, dành nguồn lực trong kế hoạch đầu tư công trung hạn, và các nguồn lực khác để hoàn thiện cơ sở vật chất cho chính quyền cấp xã; ưu tiên cho các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; những trụ sở làm việc xuống cấp.
Thứ hai, tiếp tục bổ sung công chức, viên chức cho cấp xã; trước mắt dự kiến tiếp tục bổ sung 192 công chức, viên chức thông qua sát hạch và không sát hạch vào các vị trí việc làm rất cần thiết như kế toán, tài chính, đất đai, công nghệ thông tin, y tế, giáo dục,...; bảo đảm cho cấp xã hoàn thành tốt các nhiệm vụ (vừa qua đã tăng cường, điều động, biệt phái cho cấp xã 627 công chức, viên chức, được Bộ Nội vụ, Thủ tướng Chính phủ biểu dương).
UBND tỉnh tiếp tục giao các đồng chí Thủ trưởng các ngành chịu trách nhiệm 02 việc: (i) Nắm bắt nhu cầu cán bộ, công chức, viên chức thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý để phối hợp với Sở Nội vụ điều động, biệt phái, bổ sung cho cấp xã; (ii) Tổ chức đào tạo, tập huấn, hỗ trợ chuyên môn cho cán bộ cấp xã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực mình quản lý.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện chỉ đạo của Trung ương về rà soát, đánh giá việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã phân cấp, phân quyền cho cấp xã; kiến nghị với Trung ương, với tỉnh điều chỉnh, tiếp tục phân cấp, phân quyền bảo đảm phù hợp với năng lực, trình độ của cán bộ, công chức, bảo đảm xây dựng bộ máy cấp xã tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, thực sự sát dân, gần dân, phục vụ Nhân dân.
Thứ tư, chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Nội vụ tiếp tục rà soát, thực hiện việc tuyển dụng giáo viên trên địa bàn toàn tỉnh, bảo đảm công tâm, khách quan, đúng quy định, bảo đảm đầy đủ, ổn định tỷ lệ giáo viên ở các cấp học.
Thứ năm, bảo đảm thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách cho các đối tượng theo quy định của Trung ương, của HĐND tỉnh.
e) Vấn đề thứ sáu: Về tăng cường bảo đảm trật tự, an toàn xã hội:
Vừa qua, lực lượng Công an tỉnh đã thực hiện thành công nhiều chuyên án lớn được Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công an biểu dương; trong đó có các vụ án sản xuất hàng giả quy mô lớn, đánh bạc, lừa đảo qua mạng.
Trong thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo tăng cường công tác bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ; kiên quyết đấu tranh với các loại tội phạm, nhất là tội phạm ma túy, tội phạm công nghệ cao, lừa đảo qua mạng, buôn lậu, sản xuất hàng giả, hàng nhái và giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống khác; bảo vệ tuyệt đối an toàn các sự kiện chính trị; góp phần giữ vững môi trường ổn định để phát triển kinh tế - xã hội (Công an tỉnh đang xây dựng hệ thống Camera AI, giao thông, hệ thống điều hành thông minh đến trụ sở công an xã...).
5. Về một số nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Năm 2026 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; bầu cử đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031; và là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2026 - 2030.
Dự báo tình hình chính trị - xã hội, kinh tế vĩ mô trong nước ổn định; các chủ trương, quyết sách lớn, quy định của pháp luật mới được triển khai tích cực. Tình hình thế giới và khu vực được dự báo biến động phức tạp về kinh tế, chính trị, xã hội; các vấn đề an ninh phi truyền thống như dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh mạng,... còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Ở trong tỉnh, trong bối cảnh mới, khối lượng công việc xử lý ngày càng nhiều, phức tạp, nặng nề hơn, yêu cầu cao hơn; vừa chủ động khắc phục những bất cập của nội tại, vừa phải giải quyết những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn, sẽ tạo áp lực, thách thức lớn đến việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2026 của tỉnh.
a) Về quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của UBND tỉnh:
Một là, UBND tỉnh tiếp tục phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng; khẳng định quyết tâm phấn đấu, nỗ lực với trách nhiệm cao nhất để vượt qua khó khăn, hoàn thành mục tiêu chung, đạt và vượt 15/15 chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội năm 2026, nhất là 05 chỉ tiêu cơ bản: (i) Tăng trưởng kinh tế tăng 11% so với năm 2025; (ii) Thu nhập bình quân đầu người đạt 6,3 triệu đồng/người/tháng; (iii) Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt trên 58,02 nghìn tỷ đồng, trong đó thu nội địa khoảng 51,67 nghìn tỷ đồng; (iv) Đạt tỷ lệ 100% giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công Thủ tướng Chính phủ giao; (v) Tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,5-1,0%.
Hai là, tiếp tục thực hiện phân công nhiệm vụ cho các sở, ngành, địa phương theo tinh thần 6 rõ: rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền.
Ba là, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho các sở, ngành, địa phương gắn với nguồn nhân lực và tổ chức kiểm tra, giám sát.
Bốn là, nâng cao trách nhiệm giải trình của các sở, ngành, địa phương.
Năm là, siết chặt kỷ cương hành chính và kỷ luật thực thi công vụ.
b) Về một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
(1) Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ Nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031.
(2) Tập trung triển khai đồng bộ 3 nhiệm vụ đột phá, gồm: (i) Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; (ii) Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tiên phong trong ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; (iii) Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại.
(3) Xây dựng kịch bản tăng trưởng 2 con số cho năm 2026 (cụ thể là 11%); trong đó giao nhiệm vụ cho các sở, ngành triển khai thực hiện các công trình, dự án cụ thể, định kỳ đánh giá, kiểm điểm tiến độ thực hiện. Tiếp tục làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu), thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới, đặc biệt là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và kinh tế tư nhân theo các Nghị quyết của Bộ Chính trị. Phấn đấu khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 55-58% GRDP của tỉnh, 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước và 84-85% việc làm của tỉnh trong giai đoạn 2026 - 2030.
(4) Hoàn thành Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hoàn thiện quy hoạch đô thị, nông thôn, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chuyên ngành; trong đó, tập trung hoàn thiện quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; khu đô thị hai bên sông Lô, sông Hồng, sông Đà, hai bên tuyến đường cao tốc Việt Trì - Hòa Bình kết nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai và cao tốc Hòa Bình - Sơn La; vùng phụ cận các nhà ga tuyến đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.
(5) Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm, nhất là các chương trình, dự án, công trình trọng điểm của tỉnh, của quốc gia, đặc biệt là các tuyến giao thông liên vùng, giao thông kết nối với các tuyến cao tốc, trung tâm đô thị, công nghiệp, kết nối phường Việt Trì đi phường Hòa Bình. Phát triển mới một số dự án cung cấp điện, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất, đặc biệt là các khu, cụm công nghiệp, các khu du lịch, các dự án sản xuất công nghiệp lớn.
(6) Tăng cường quản lý chặt chẽ nguồn thu, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời. Triệt để tiết kiệm chi; ưu tiên thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến chi cho con người, chính sách an sinh xã hội, các nhiệm vụ, chương trình, dự án cấp bách, trọng điểm của tỉnh.
(7) Nâng cao chất lượng xúc tiến đầu tư; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Thúc đẩy cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng hiện đại, nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh. Thúc đẩy hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại. Hoàn thành xây dựng Đề án khu thương mại tự do (FTZ).
(8) Phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Cụ thể hóa Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035. Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện, hiệu quả, thực chất giáo dục và đào tạo và tăng cường, nâng cao năng lực y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân theo các Nghị quyết 71, 72 của Bộ Chính trị. Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế. Đẩy mạnh giải quyết việc làm, giảm nghèo; thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Phấn đấu đến cuối năm 2026 hoàn thành 6.923 căn nhà ở xã hội.
(9) Tiếp tục cụ thể hóa triển khai các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị vềphát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Thực hiện hiệu quả phong trào “Bình dân học vụ số” trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh phát triển hạ tầng kỹ thuật viễn thông, hạ tầng số; bảo đảm an toàn thông tin, dữ liệu cá nhân.
(10) Tăng cường công tác quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, môi trường. Chủ động triển khai các biện pháp sẵn sàng ứng phó với các loại hình thiên tai.
(11) Thường xuyên đánh giá hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật sau ban hành, xử lý tổng thể, đồng bộ, tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ quy định pháp luật thuộc các ngành, lĩnh vực.
(12) Tăng cường củng cố quốc phòng; xây dựng, triển khai các đề án, kế hoạch về quân sự, quốc phòng giai đoạn 2026-2030. Tiếp tục triển khai Nghị quyết 12 của Bộ Chính trị về xây dựng lực lượng công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh, nhất là cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031.
Kính thưa các vị đại biểu, khách quý!
Thưa các vị đại biểu HĐND tỉnh, toàn thể cử tri và Nhân dân trong tỉnh!
Trong bối cảnh thách thức, áp lực là rất lớn, nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề; UBND tỉnh trân trọng đề nghị và mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy; sự đồng hành, giám sát của HĐND tỉnh, Ủy ban MTTQ tỉnh, các tổ chức đoàn thể; sự đồng thuận, ủng hộ, tạo điều kiện của đại biểu HĐND tỉnh, cử tri và Nhân dân trong toàn tỉnh. UBND tỉnh nghiêm túc tiếp thu ý kiến đóng góp để tiếp tục đổi mới, quyết liệt chỉ đạo, điều hành, nỗ lực phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026 và giai đoạn 2026 - 2030, tạo nền tảng, động lực cho sự phát triển bền vững của tỉnh Phú Thọ.
Kính chúc các vị đại biểu, khách quý và toàn thể các đồng chí năm mới 2026 mạnh khỏe, hạnh phúc và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.













