Bài thơ 'Đi lễ chùa' của Dư Thị Hoàn: Nỗi niềm số phận người phụ nữ
'Đi lễ chùa' là bài thơ đặt vấn đề về số phận con người - cõi người đặc biệt là người phụ nữ thông qua sự chiêm nghiệm kín đáo, sâu sắc.

Ảnh minh họa: ITN
Tác phẩm mang đến cho độc giả một thức nhận giàu tính khái quát xuất phát từ một câu chuyện cụ thể bởi nó đã thâu tóm được nhiều số phận tương đồng, thể hiện một triết lí nhân sinh mà không phải ai cũng nhận ra được.
Giọng tự sự có vẻ khách quan, không kèm theo lời bình luận thể hiện tình cảm ướt át nào có lẽ là ấn tượng chung của nhiều người khi đọc thơ Dư Thị Hoàn - một nữ sĩ đang gây được nhiều tiếng vang trên thi đàn văn học nước nhà.
Dư Thị Hoàn bước vào làng văn chương khá muộn. Năm 41 tuổi chị mới bắt đầu ghi dấu ấn bằng bài thơ “Lối nhỏ”. Dường như chị không có ý định làm thơ như một sự chọn lựa sinh tồn, “mà thơ đến với chị như sự bù đắp những nghiêng ngả mệnh kiếp long đong” (Lê Thiếu Nhơn).
Có lối nhỏ chia đôi thảm cỏ
Em thả bước chán chường
Có lối nhỏ gập ghềnh sỏi đá
Gót chân em nện xuống dữ dằn
Có lối nhỏ vương cây xấu hổ
Em sợ nó khép mình
Biết làm sao bây giờ
Chính lối này đưa em tới anh…
(Lối nhỏ)
Đọc thơ Dư Thị Hoàn ta bắt gặp tâm hồn của một người đàn bà mang nhiều nỗi niềm ẩn ức. Chính cuộc đời nhiều thăng trầm, khổ ải sản sinh ra một hồn thơ đặc biệt như chị. Dư Thị Hoàn ký gửi vào thơ nỗi buồn khó nói, nỗi đau khó diễn tả, những nỗi giằng xé trong tâm can mình. Đó cũng chính là những “lối nhỏ” để nhà thơ giãi bày lòng mình, những suy nghĩ, quan điểm của mình trước bản thân, con người và thời đại.
Bao biến động của thời cuộc, những gập ghềnh, gấp khúc, ngã rẽ của cuộc đời mình, của gia đình, người thân; và những tai họa liên tiếp ập đến với chị. Dư Thị Hoàn cảm thấy bất an, nhiều lúc như mất niềm tin vào thực tại. Chị chợt nhận ra số phận của mình, nhà thơ thẳng thắn nêu lên quan điểm, chiêm nghiệm sống của đời người, đặc biệt là thân phận người phụ nữ. Và để rồi, cơ hồ, có nhiều lúc, họ gửi niềm riêng vào những đấng siêu nhiên. “Đi lễ chùa” cũng là một trường hợp như thế.
Năm người đàn bà cùng ngồi trên xe ngựa
Tay khư khư ôm đầy vật tế lễ
Người thứ nhất thở dài:
- Tội nghiệp nhất người đàn bà không chồng!
Người thứ hai chép miệng:
- Vô phúc nhất người đàn bà không con!
Người thứ ba cười buông:
- Bất hạnh nhất những người đàn bà không khóc nổi trước mặt chồng!
Người thứ tư điềm đạm:
- Tuyệt vọng nhất người đàn bà không cười được khi thấy con!
Người thứ năm:
- Mô Phật!
Lão xà ích giật giây cương
Roi quất tung bụi đường.
Điều dễ nhận thấy là Dư Thị Hoàn đã mượn một tình huống có thật trong cuộc sống: Đi lễ chùa như nhan đề để làm cốt lõi cho câu chuyện - bài thơ của mình. Một câu chuyện vẫn thường xảy ra trong cuộc sống hiện đại. Tính chất ký sự - đặc trưng của phương thức tự sự nổi lên khá rõ nét (dĩ nhiên cũng không thoát ra ngoài sự chi phối của tính chất trữ tình) bởi bài thơ có các tình tiết, các sự kiện làm nên câu chuyện, tình huống. Những yếu tố đã được “thuật kể” tuần tự theo cách “kể xuôi” trong hành trình quan sát của nhà thơ và bài thơ theo đó được mở ra.

Ảnh minh họa: ITN
Bài thơ là câu chuyện diễn ra trong thời gian không dài của sáu nhân vật kể cả bác xà ích. Năm người đàn bà - không nhiều nhưng cũng không ít. Bằng cái nhìn đầy tâm trạng của một nhà thơ nữ, Dư Thị Hoàn đã gói nỗi đau nhân tính vào thân phận phái nữ - những người bao giờ cũng sôi nổi nhất trước hạnh phúc và cũng quằn quại nhất trước thương đau. Bốn người đàn bà - trong năm người cùng ngồi trên xe ngựa “tay khư khư ôm đầy vật tế lễ” trong chuyến hành trình về cõi Phật đều có một phát ngôn riêng, trừ người đàn bà thứ năm.
Người thứ nhất: Tội nghiệp nhất người đàn bà không chồng!
Người thứ hai: Vô phúc nhất người đàn bà không con!
Người thứ ba: Bất hạnh nhất những người đàn bà không khóc nổi trước mặt chồng!
Người thứ tư điềm đạm: Tuyệt vọng nhất người đàn bà không cười được khi thấy con!
Những quan điểm, trải nghiệm của những người phụ nữ trên chuyến hành trình về cõi Phật đều là những tâm sự thể hiện rõ nỗi đau khổ, bất hạnh, oái oăm nhất của con người trong cuộc sống. Nỗi khổ đau, sự bất hạnh ấy có mặt ở rất nhiều nơi, ở rất nhiều người quanh chúng ta.
Bốn mặt trái, bốn đớn đau của hạnh phúc và tình yêu: Người thứ nhất không có chồng - không có bến đỗ trước cuộc đời dài rộng; người thứ hai không được làm mẹ, không được thực hiện thiên chức của người phụ nữ; người thứ ba không khóc được trước mặt người đàn ông họ trao gửi cả cuộc đời; người thứ tư không cười được khi thấy con. Niềm đau cứ tăng tiến theo cấp độ.
Mỗi người đều mang một nỗi niềm không giống ai nhưng ta có thể chắc chắn được một điều rằng cả bốn người phụ nữ được nói đến trong mỗi cảnh ngộ đó đều là những người phụ nữ không hạnh phúc.
Quả thật, ước mong của người phụ nữ Việt tự ngàn xưa là có một mái ấm gia đình, một người chồng bên cạnh để sẻ chia mọi nỗi buồn vui của cuộc đời. Bởi với họ đó là niềm tin và lẽ sống. Thế nhưng trong cuộc sống, có rất nhiều người phụ nữ không có được điều đó. Họ rơi vào nỗi cô đơn, lẻ loi, suốt đời mang gánh dở dang. Có người lại không được làm mẹ. Con cái là phúc phần của người phụ nữ, không con lấy gì hạnh phúc, cũng giống như cây không thể nở hoa. Nhưng có lẽ đó không phải là tột cùng của nỗi đau.
Trong đời người mấy ai được hưởng trọn niềm vui niềm hạnh phúc, ai chẳng mang nỗi niềm u uất, một khát vọng không thể giãi bày. Bởi có chồng mà không thể cùng chồng sẻ chia tấm lòng, không thể nương tựa vào chồng những lúc khổ đau. Lúc đó họ đã trở nên vô cảm, dửng dưng trước bao niềm vui, nỗi buồn thường nhật. Đặc biệt, người phụ nữ - người mẹ ấy không cười được khi nhìn thấy con - khúc ruột mình mang nặng đẻ đau và ấp ủ bao tình cảm không thể đong đếm. Đây chính là nỗi đau vô bờ bến, cướp đi hy vọng của người mẹ...
Chính khi bất hạnh như vậy họ tìm đến với Tôn Giáo - với cõi Phật từ bi để tìm cho mình một chốn trú ngụ, chốn cứu rỗi - một nơi neo giữ tâm hồn bằng cách “tay khư khư ôm đầy vật tế lễ”. Vậy tại sao người đàn bà thứ năm không tiếp tục thể hiện quan điểm rõ ràng như những người đồng hành? Phải chăng trong đoàn người đi lễ chùa ấy chị là người hạnh phúc hơn cả? Nhưng đó cũng chưa phải là điều chắc chắn. Chị không nói bởi vì hình như tất cả những góc cạnh khổ đau nhất trên cõi đời - cõi người này đều đã được nói.
Và cũng bởi hình như tất cả những nỗi niềm bất hạnh đó đều có ở người đàn bà thứ năm để rồi “Mô Phật” được thốt ra từ sự câm lặng, từ nỗi đau không thể diễn tả bằng lời, nỗi đau chảy ngược vào trong. Tâm sự của cả năm người phụ nữ qua cách “ghi lại” của nhà thơ thể hiện quan niệm nhân sinh về đạo Phật “Đời là bể khổ, tình là dây oan”. Họ đi lễ chùa chính là đi tìm sự giải thoát, tìm kiếm sự cứu rỗi linh hồn ở Đức Phật từ bi. Cỗ xe ngựa vô tri trở thành chuyến xe đời mang chở bao nhiêu số phận con người.
Lão xà ích giật dây cương
Roi quất tung bụi đường.
Cuộc đời cứ thế không bao giờ ngừng chảy. Và sự sống vẫn luôn luôn là sự giằng xé giữa hạnh phúc và khổ đau, nụ cười và nước mắt. Ranh giới giữa chúng vốn mong manh lắm. Biết bao nhiêu con người không có được sự đủ đầy, viên mãn bởi chính bụi đường hay chính bụi của cuộc đời vẫn cứ “tung” lên một cách vô tình.
Có lẽ thơ Dư Thị Hoàn không phải là loại thơ dễ đọc. Thơ chị ngổn ngang, bề bộn nhiều thứ. Đó là thơ của một người đàn bà trải qua những va đập, khốn khó, mất mát và đau thương. Giọng thơ hoài nghi, đầy ẩn ức và tràn ngập nỗi cô đơn. Thơ chị liên kết lại bởi một chuỗi các sự việc, hiện tượng, hình ảnh, nó giống như những gì đang diễn ra trong suy nghĩ của nhà thơ.
Chị không chú tâm nhiều đến hình thức, đẽo gọt, lắp ghép câu chữ. Với chị: Không thể làm thứ thơ véo von, uyển chuyển dùng để ngâm vịnh, tán tụng nhau. Vì thứ thơ ấy dù có thịnh đến mấy thì cũng đã tới đỉnh của nó, phía bên kia đỉnh là vực thẳm. Trong bài Khi cầm bút, chị cũng đã thể hiện rõ quan điểm của mình:
Tôi mong được làm điểm tựa
Chống chọi sức đè nén
Cho đòn bẩy nhấc bổng cuộc đời
Những người xấu số.
Điều này rất đáng trân trọng đối với một người cầm bút. Đó vừa là trách nhiệm, là ý thức tự giác của một nghệ sĩ có tâm. Để rồi càng đọc thơ chị, đọc “Đi lễ chùa” ta thấm thía rõ thêm điều đó. Dư Thị Hoàn đã đi từ tâm sự của một người phụ nữ để nói lên tâm sự của bao người phụ nữ trên thế gian này bằng cách nói thật giản dị, mộc mạc, đời thường. Cũng chính bởi lẽ đó bài thơ gợi được niềm đồng cảm và có sức lay động lòng người.
“Đi lễ chùa” là một tứ thơ nói lên nhu cầu được giải thoát của không chỉ riêng người phụ nữ. Thi tứ này thực ra không có gì mới bởi trước chị đã từng có nhiều nhà thơ, nhà văn đề cập đến. Nhưng điều đáng ghi nhận chính là sự trăn trở, suy ngẫm về cuộc đời một cách chân thành và đáng trân trọng.
Bài thơ còn thể hiện một lối tư duy mới về thơ, đó là cách bộc lộ trữ tình nhẹ nhàng đi lên từ thực tế cuộc sống. Chính vì lẽ đó “Đi lễ chùa” hầu như chỉ có sự việc, sự kiện, nhân vật được nói đến; còn cảm tình, suy luận, nhận xét của tác giả ẩn rất kín, ít khi bộc lộ ra.
Cũng lối thơ này, Dư Thị Hoàn có thêm điều kiện đối tượng hóa lòng mình và kể cho ta nghe nhiều chuyện xảy ra trong thời đại chị sống, có thêm điều kiện để thử thách khả năng của câu thơ điệu nói và tiến thêm một bước trong việc phá bỏ những rào chắn cách ngăn thơ trữ tình với các thể loại văn học tự sự vốn đang phát triển mạnh mẽ trong nền văn học mới với nhiều chiều hướng như hiện nay.
Cũng nhờ nó, thơ trữ tình được kéo gần với cuộc sống hơn, mang tính chất dân chủ hơn, phù hợp với tầm đón nhận của độc giả hơn. Theo tôi, đây là điều rất đáng quý, cần thiết cho thơ và góp phần làm phong phú thêm cho một nền thơ đang phát triển.