Bản Tuyên ngôn của lòng dân hợp quy luật phát triển
Bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử của nhân dân Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trong chiều ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình trang trọng tuyên bố với quốc dân và thế giới hiện thực đã và đang diễn ra ở Việt Nam: 'Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do và độc lập'. Đó là điều hợp với lòng dân và công lý quốc tế.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945. (Ảnh tư liệu)
Cuộc cách mạng của lòng dân
Nói về sức mạnh của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [1]. Luận điểm này mang đậm triết lý nhân sinh phương Đông: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh; Dân như nước, đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân; Nước lấy dân làm gốc...
Trong những năm 1941-1945, đặc biệt trong cao trào Kháng Nhật cứu nước, dưới ngọn cờ Độc lập Tự do, lực lượng cách mạng phát triển mạnh mẽ rộng khắp trong cả nước. Trong không khí cách mạng sục sôi những ngày tháng đó, mỗi người dân Việt Nam ai cũng mong muốn sớm giành lại được độc lập, tự do.
Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã kết thúc thắng lợi nhanh chóng trong cả nước bằng phương thức khởi nghĩa toàn dân, thể hiện sức mạnh vĩ đại của tinh thần dân tộc, ý chí độc lập và khát vọng tự do của toàn thể nhân dân Việt Nam. Với lực lượng đông đảo được tập hợp và rèn luyện qua nhiều phong trào đấu tranh, với một người dẫn đường xuất sắc, nhân dân Việt Nam đã đứng lên tự giải phóng mình mà không trông mong, chờ đợi một “khoảng trống quyền lực” hay một khoảng “chân không chính trị” từ đâu đó.
Đoạn tuyệt với quá khứ nô lệ, Tuyên ngôn độc lập khẳng định quyết tâm của nhân dân xây dựng chế độ xã hội mới: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” [2].
Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là cuộc cách mạng nhân dân. Đó là cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân tiến hành và vì lợi ích của nhân dân, để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, đem lại quyền lợi cho mỗi người dân. Nhân dân vừa là động lực vừa là mục tiêu giải phóng của cách mạng. Khi lòng dân đã hợp về một mối Độc lập - Tự do thì “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” [3].
Ý chí đó được phát triển và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết thành chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chân lý đó đã đi cùng dân tộc Việt Nam qua những năm tháng hào hùng của các cuộc kháng chiến chống xâm lược sau này, làm nên những chiến công hiển hách, những thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX.
Khẳng định tính “pháp lý chính trị”
Cho đến thế kỷ XX, quyền con người đã trở thành một giá trị phổ quát được công nhận. Bản Tuyên ngôn độc lập nêu rõ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Từ những “lẽ phải không ai chối cãi được” đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh “suy rộng ra” và khẳng định quyền của các dân tộc - của các quốc gia dân tộc cũng như của các tộc người trong một quốc gia dân tộc thống nhất: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [4].
Mục tiêu trên hết và trước hết cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân - một vết nhơ trong văn hóa nhân loại. Và “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xit mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” [5]. Tính chính đáng - tính “Pháp lý chính trị” của cuộc cách mạng tự giải phóng của dân tộc Việt Nam đã được khẳng định như vậy trong lời Tuyên ngôn độc lập.
Với nhân dân Việt Nam, bản Tuyên ngôn độc lập đánh dấu kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên Độc lập - chấm dứt ách nô lệ thực dân và Tự do - chấm dứt chế độ phong kiến. Với nhân loại, bản Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam chứa đựng những thông điệp thời đại về Dân tộc, Dân chủ và Dân quyền.
Đó là tiếng chuông báo sự khởi đầu tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Lịch sử nhân loại trong thế kỷ XX đã chứng kiến những cuộc đấu tranh lâu dài và quyết liệt đòi những quyền dân tộc cơ bản của các nước thuộc địa. Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam thắng lợi làm dấy lên niềm tin, là nguồn động viên tiếp sức cho các dân tộc còn đang bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập cho mình.

Khung cảnh Quảng trường Ba Đình trước khi khai lễ, ngày 2/9/1945. (Ảnh tư liệu)
Nguồn động lực lớn của đất nước
Lần đầu tiên, nền dân chủ được xác lập trên đất nước Việt Nam đã theo kịp với trào lưu dân chủ thế giới. Thể chế Dân chủ Cộng hòa là một thành tựu phổ quát của nền chính trị nhân loại, đã được hồ hởi đón nhận ở Việt Nam - nơi dân chúng đã trải qua nền quân chủ ngàn năm trong lịch sử.
Thắng lợi vĩ đại cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là tất yếu, hợp với quy luật phát triển xã hội, với sự đồng thuận của nhân dân. Đó là cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân tiến hành và vì lợi ích của nhân dân để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, mở ra kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Nhìn lại thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, cần khẳng định rằng: Chủ nghĩa dân tộc chân chính, ý chí độc lập và khát vọng tự do là động lực lớn của đất nước. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và là cơ sở để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp.
Cuộc trung hưng của “nước Việt Nam mới” được Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức xác nhận và khẳng định từ ngày 2/9/1945. Khi chính quyền cách mạng đã là của nhân dân, nhiệm vụ đặt ra là: Phát triển kinh tế và văn hóa, thúc đẩy phát triển xã hội và hệ thống an sinh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân… tất cả đều hướng đến mục tiêu vì hạnh phúc của con người.
Sau khi hoàn thành công cuộc đấu tranh giành lại và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, nhân dân Việt Nam tiếp tục xây dựng đất nước phát triển, tiến bộ về mọi mặt. Hôm nay, động lực lớn ấy càng cần được phát huy toàn diện trong sự nghiệp đưa đất nước đến thịnh vượng, phồn vinh.
Trong bối cảnh mới, độc lập dân tộc được đặt trong tương quan các mối quan hệ quốc tế, hợp tác song phương và đa phương để cùng phát triển. Các mối quan hệ hữu nghị dựa trên cơ sở tôn trọng những quyền lợi của nhau. Việt Nam kiên trì, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc.
Tinh thần độc lập, tự do trường tồn đã khơi dậy mạnh mẽ trong chúng ta khát vọng, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 8 - Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 276.
Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 4, Sđd, tr. 3.
Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 4, Sđd, tr. 3.
Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 4, Sđd, tr. 1.
Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 4, Sđd, tr. 3.
Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/ban-tuyen-ngon-cua-long-dan-hop-quy-luat-phat-trien-326162.html