Bên dòng Trà giang...

Hoằng Kim là vùng đất cổ, có bề dày truyền thống lịch sử - văn hóa. Những cái tên làng cổ như: Kim Sơn, My Du, Nghĩa Trang... theo thời gian đã ghi đậm dấu ấn trên vùng đất này, sống mãi cùng những hoài niệm, ký ức của biết bao thế hệ người dân nơi đây. Để rồi, dẫu mai này có biến động ra sao, những đứa con của làng cũng mang theo niềm tự hào về giá trị lịch sử - văn hóa quê hương mà tiến bước.

Cụm di tích đền - phủ làng Nghĩa Trang, xã Hoằng Kim (Hoằng Hóa).

Cụm di tích đền - phủ làng Nghĩa Trang, xã Hoằng Kim (Hoằng Hóa).

Bức tranh cảnh sắc thiên nhiên Hoằng Kim còn được tô điểm bởi những dáng núi nhỏ nằm xen giữa những cánh đồng và xóm làng, có con sông Trà (hay còn gọi là sông Ấu) chảy qua. Địa chí văn hóa Hoằng Hóa có những dòng miêu tả về con sông Trà này: “Nếu như sông Cung nối liền sông Lạch Trường với sông Mã thì sông Trà nối liền sông Lèn với sông Lạch Trường. Cũng như sông Cung, sông Trà vừa tiêu úng, vừa đem lại nguồn thực phẩm dồi dào về thủy sản cho các làng ven sông”. Trước đây, cùng với Mã giang, sông Trà góp phần tạo nên một mạng lưới giao thông đường thủy rất thuận tiện cho thuyền bè từ sông Lạch Trường lên Ba Bông, xuôi sông Lèn hoặc đi sông Mã lên ngã ba Giàng. Hiện nay cửa sông bị lấp, dòng sông bị chia cắt thành nhiều khúc nhưng vẫn là nơi soi bóng những ngôi làng trù phú với những vỉa tầng lịch sử - văn hóa đặc sắc.

Làng Nghĩa Trang có tên nôm là làng Già, được hình thành vào đầu thế kỷ thứ VI. Ngôi làng yên bình nép mình bên bờ Trà giang, ngước mặt nhìn lên dãy núi Sơn Trang hùng vĩ, được núi Sơn Trinh, núi Nghè bao bọc. Các thế hệ người dân nơi đây vẫn lưu truyền câu thơ ca ngợi cảnh đẹp của làng trong niềm tự hào sâu sắc: “Làng ta phong cảnh hữu tình/ Trà giang uốn khúc như hình con long”.

Trung tâm làng dọc theo đường thiên lý có chợ Già gần sát bên sông Trà, xưa thuyền bè đông vui tấp nập, hoạt động giao thương, buôn bán nhộn nhịp. Từ chợ, Nhân dân trong làng đã xây cất nhà ở dọc theo đường, làm đình chợ, đào giếng chợ, tạo mọi điều kiện cho những người đến trao đổi hàng hóa, kể cả những người từ xa đến có nhu cầu ở lại vài ba ngày. Có thể nói, chợ Già và làng Nghĩa Trang lúc bấy giờ đã trở thành trung tâm buôn bán sầm uất, nổi tiếng của cả vùng rộng lớn từ Tây Bắc Hậu Lộc đến Bắc Hoằng Hóa, sang cả bên kia sông Mã như làng Giàng, làng Vồm, làng Tử...

Làng có cụm di tích đền - phủ Nghĩa Trang đã được công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh từ năm 1988. Nơi đây phối thờ các vị thần là Bắc Lương Vũ Đế, Liên Hoa công chúa và Cao Sơn thượng đẳng thần. Cụm di tích đền - phủ Nghĩa Trang nằm ở vị trí đẹp, có sông có núi hữu tình, nên thơ. Cổng đền trước đây là một nghinh môn to đẹp, trước cổng có tấm bia ghi dòng chữ - “hạ mã”. Tuy nhiên, hiện nay, cổng đền có thiết kế đơn giản với hai cột trụ làm bằng gạch đứng hai bên, ở giữa là cánh cửa khép mở đơn thuần, dẫn lối vào khu nhà bia 8 mái. Khu chính điện được xây dựng với kiến trúc 5 gian, chia thành 2 khu theo lối tường hồi bít đốc. Mặc dù kiến trúc đền - phủ không phô trương, bề thế nhưng lịch sử hình thành và phát triển của cụm di tích này phần nào phản ánh đời sống văn hóa - tâm linh của người dân nơi đây.

So với làng Nghĩa Trang, làng My Du có diện tích nhỏ hơn. Theo các cụ cao niên trong làng, My Du có nghĩa nôm là kẻ Giàu, Đa Mi. Từ buổi sơ khai xây dựng làng chỉ với 5 đến 7 hộ, theo thời gian, bằng sức sáng tạo, đôi bàn tay chăm chỉ, cần cù, nếp sống, nếp nghĩ của người dân qua bao đời kết dệt nên truyền thống, văn hóa độc đáo. Cho đến ngày nay, làng My Du vẫn lưu giữ được nét đẹp, hồn làng Bắc bộ, Bắc Trung bộ xưa trong hình ảnh cây đa, bến nước, sân nghè... Trong lịch sử, làng My Du từng là nơi luyện tập dân quân, du kích cách mạng thời kỳ mới giành được chính quyền, từng là nơi đặt trụ sở ủy ban hành chính xã cũ.

Di tích nghè My Du tọa lạc trên khu đất thoáng đãng, xung quanh là bóng cây xanh mát, bên hông đền là dòng sông Trà lững lờ nước chảy. Từ các tư liệu còn lưu giữ được, nghè My Du là nơi thờ cúng hai vị thần: Độc Cước sơn tiêu và Quế Hoa công chúa - đều là những vị thần gắn liền với các giai thoại, huyền tích giúp dân, giúp nước. Trải qua trùng tu, tôn tạo, nghè My Du còn lưu giữ được nhiều hiện vật cổ như: đạo sắc phong, thần phả, đồ đồng, sứ...

Huyền tích về vị thần họ Cao, tên Sơn, là Độc Cước giáng linh tại khu đất của làng My Du được lưu truyền: Bậc thiên thần giáng linh xuống khu đất Thổ Phụ, thôn My Du, xã Sơn Trang, tổng Dương Sơn, huyện Mỹ Hóa trong một đêm mưa gió. Sáng hôm sau, người dân trong thôn đi đến bờ sông, lên gò đất Thổ Phụ thì nhìn thấy một dấu vết dài hơn 1 thước, rộng 7 thước in hằn. Mọi người trong thôn đều cho đó là điều kỳ lạ nhưng chưa hiểu thực hư thế nào. Sau đó, cùng trong một đêm, có 4 người dân trong thôn đều mộng gặp một vị đại nhân, áo mũ chỉnh tề, từ phía trời đến đứng ngay tại gò đất nói lớn: Ta là thần Độc Cước, được lệnh truyền cho cai quản hương ấp. Nói rồi, thần biến mất. Sáng hôm sau, bốn người ngồi đối thoại với nhau mới vỡ lẽ cùng một giấc mộng, biết được thần giáng linh nên truyền lại cho dân làng bày án cầu đảo, không lâu sau lập đền thờ phụng, khói hương. Hiện nay, tại nghè My Du còn lưu giữ 9 đạo sắc phong cho thần.

Về Quế Hoa công chúa, sách Thanh Hóa chư thần lục có viết: Thần là người xã Tây Mỗ, giáng sinh vào đời vua Cảnh Hưng (1740 - 1786). 16 tuổi thì rời làng đi tu ở thôn Bảo Tá, Nam Định. Ngày thì đi học kinh niệm Phật dốc chí tu hành, đêm thì hay qua lại miếu thờ tiên thánh trai giới. Đến năm 33 tuổi thì thoát hóa. Ngày đưa đám, gió thổi bụi tan, mưa tuôn đường sạch, mây hồng che huyệt, chim yến tường trình. Nhân dân biết là người tiên nên soạn thành sự tích gửi giao về nơi nguyên quán để lập đền thờ, có tỏ nhiều sự linh ứng.

Điểm xuyết lại lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Hoằng Kim qua sự xuất hiện của các tên kẻ, tên làng và sức sống di tích để thấy rằng: Dẫu trải qua biến thiên thời gian, thăng trầm lịch sử, địa giới hành chính, tên gọi của vùng đất ấy có thể thay đổi. Nhưng tất cả không hề mất đi mà như đã khảm vào ký ức các thế hệ người dân nơi đây niềm thương, nỗi nhớ không bao giờ vơi cạn. Giữa nhịp sống hôm nay, những giá trị lịch sử - văn hóa ấy vẫn đang được bảo tồn và phát huy, trở thành điểm tựa vững vàng, bóng mát chở che cho thế hệ cháu con nơi này không ngừng nỗ lực, phấn đấu xây dựng quê hương, đất nước.

Bài và ảnh: Đăng Khoa

* Bài viết sử dụng tư liệu trong cuốn sách “Lịch sử đảng bộ xã Hoằng Kim (1953-2018)”, NXB Lao động.

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/ben-dong-tra-giang-252113.htm