Biến di sản văn hóa thành đòn bẩy phát triển kinh tế bền vững cho cộng đồng

Sau khi sáp nhập với Phú Yên, tỉnh Đắk Lắk hiện sở hữu nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, hội tụ cả đặc trưng của vùng núi cao nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ. Với sự hiện diện của các di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, tỉnh Đắk Lắk đang đứng trước cơ hội lớn để biến di sản thành 'nguồn lực mềm', tạo động lực cho sự phát triển du lịch bền vững, mang lại sinh kế, lợi ích trực tiếp và thiết thực cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ.

Cồng chiêng-biểu tượng văn hóa thiêng liêng gắn liền với mọi nghi lễ vòng đời, lễ hội của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk trở thành nguồn lực để phát triển du lịch. Ảnh: An Nhiên

Cồng chiêng-biểu tượng văn hóa thiêng liêng gắn liền với mọi nghi lễ vòng đời, lễ hội của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk trở thành nguồn lực để phát triển du lịch. Ảnh: An Nhiên

Khai thác di sản gắn với phát triển du lịch

Đắk Lắk là nơi sinh sống từ lâu đời của 49 dân tộc anh em. Văn hóa Đắk Lắk là sự hội tụ độc đáo giữa đặc trưng của vùng biển và cao nguyên tạo nên một bức tranh thiên nhiên, văn hóa đa sắc hấp dẫn. Tuy nhiên, yếu tố nổi bật nhất, mang tính biểu tượng và thu hút khách du lịch, nhất là khách quốc tế, chính là các giá trị được kiến tạo bởi đồng bào Ê Đê, M'nông, J'rai...

Một niềm tự hào đặc biệt của Đắk Lắk là tỉnh hiện diện trong hai di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại được UNESCO ghi danh, đó là Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên và Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ. Trong đó, cồng chiêng Tây Nguyên là biểu tượng văn hóa tiêu biểu nhất, không chỉ là nhạc cụ, mà còn là tài sản thiêng liêng, là "tiếng nói tâm linh" kết nối con người với thiên nhiên, thần linh và cộng đồng. Sự hiện diện của cồng chiêng trong mọi nghi lễ vòng đời, lễ hội là bằng chứng sống động nhất về sức sống văn hóa, đã được UNESCO ghi danh, tạo ra một thương hiệu văn hóa không thể nhầm lẫn cho Tây Nguyên (cũ) nói chung và Đắk Lắk nói riêng.

Xác định được giá trị cốt lõi này, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk đã triển khai đồng bộ các chính sách, nghị quyết nhằm bảo tồn và khai thác di sản gắn với phát triển du lịch, tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc cho việc thu hút nguồn lực và đầu tư. Đến nay, toàn tỉnh đã khôi phục hơn 1.600 bộ chiêng và duy trì 481 đội chiêng, đội văn nghệ dân gian hoạt động thường xuyên. Cùng với đó, địa phương này đã khôi phục nhiều lễ hội truyền thống như lễ cúng bến nước, lễ hội đua voi Buôn Đôn, lễ bỏ mả...

Với văn hóa truyền thống, đa dạng, đặc sắc và cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, Đắk Lắk có tiềm năng rất lớn phát triển du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm. Ảnh: An Nhiên

Với văn hóa truyền thống, đa dạng, đặc sắc và cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, Đắk Lắk có tiềm năng rất lớn phát triển du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm. Ảnh: An Nhiên

Du lịch cộng đồng-chìa khóa giúp người dân phát triển kinh tế

Trên nền tảng văn hóa truyền thống phong phú, đa dạng, tỉnh Đắk Lắk là địa phương tiên phong phát triển du lịch cộng đồng gắn với di sản văn hóa. Mô hình này đã chứng minh được tính hiệu quả trong việc gắn kết bảo tồn và phát triển kinh tế, tạo ra chuỗi giá trị kinh tế trực tiếp cho người dân tại các buôn làng. Theo đó, sự ra đời và phát triển của các buôn du lịch như Akô Dhông, Buôn Trí, Buôn Kuốp đã mở ra những cơ hội gia tăng thu nhập cho cộng đồng dân tộc thiểu số. Người dân tận dụng kiến trúc nhà dài truyền thống để cung cấp dịch vụ homestay, giúp du khách trải nghiệm chân thực đời sống. Các bà, các mẹ trở thành đầu bếp, giới thiệu ẩm thực địa phương (rượu cần, các món ăn truyền thống), tạo ra nguồn thu nhập ổn định.

Đặc biệt, hoạt động du lịch cộng đồng là đầu ra bền vững cho các nghề thủ công truyền thống như dệt thổ cẩm, đan lát, tạc tượng. Các sản phẩm này được tiêu thụ trực tiếp tại buôn làng, giúp tăng giá trị sản phẩm địa phương và hình thành các sản phẩm OCOP đặc trưng.

Quan trọng hơn, 481 đội chiêng, đội văn nghệ dân gian hoạt động thường xuyên, biểu diễn nghệ thuật cồng chiêng, dân ca, dân vũ phục vụ du khách. Các nghệ nhân được nhận thù lao trực tiếp từ hoạt động biểu diễn, giúp họ duy trì đam mê và nâng cao đời sống. Việc khôi phục hơn 1.600 bộ chiêng không chỉ là bảo tồn văn hóa, mà còn là duy trì "công cụ kiếm sống" của nghệ nhân, giúp họ tự hào hơn về nghề truyền thống.

Lợi ích kinh tế từ du lịch không chỉ dừng lại ở tiền bạc, mà còn mang lại sự tự chủ cho cộng đồng. Theo đó, những chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để cộng đồng tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý, khai thác và hưởng lợi từ các sản phẩm du lịch văn hóa đã đảm bảo lợi ích được phân chia công bằng và công tác bảo tồn được thực hiện hiệu quả hơn. Vai trò của già làng, chức sắc tôn giáo và nghệ nhân được phát huy mạnh mẽ. Họ không chỉ là người truyền dạy văn hóa, mà còn là người định hướng, tổ chức hoạt động du lịch, từ đó củng cố vị thế xã hội và uy tín trong cộng đồng.

Sản phẩm thủ công truyền thống được người dân bày bán tại các điểm du lịch giúp gia tăng thu nhập cho gia đình. Ảnh: An Nhiên

Sản phẩm thủ công truyền thống được người dân bày bán tại các điểm du lịch giúp gia tăng thu nhập cho gia đình. Ảnh: An Nhiên

Vượt rào cản, tìm giải pháp phát triển bền vững

Mặc dù đạt được những thành tựu quan trọng, công tác khai thác di sản gắn với du lịch tại Đắk Lắk vẫn đối mặt với không ít rào cản. Thách thức lớn nhất là nguy cơ mai một trong giới trẻ do lối sống hiện đại và sự thiếu hấp dẫn của các nghề truyền thống. Ngoài ra, sản phẩm du lịch còn đơn điệu và tình trạng "sân khấu hóa di sản" vẫn diễn ra ở một số điểm du lịch. Trong khi đó, đội ngũ nghệ nhân suy giảm, môi trường thực hành di sản bị thu hẹp.

Để di sản văn hóa các dân tộc thiểu số thực sự “sống” trong đời sống đương đại và trở thành nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển du lịch bền vững, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk cho biết, đang tập trung triển khai các nhóm giải pháp chiến lược, toàn diện. Đó là phát triển sản phẩm trải nghiệm đặc trưng, chuyển từ mô hình "xem" sang mô hình "làm và sống cùng văn hóa". Xây dựng các tour du lịch trải nghiệm sâu như: "Một ngày làm nghệ nhân" (học đánh chiêng, làm rượu cần), "Sống trong nhà dài" (nghe kể sử thi, truyền thuyết). Đồng thời, chuẩn hóa dịch vụ để tăng khả năng chi trả và lưu trú dài ngày của du khách.

Cùng với đó, tỉnh Đắk Lắk xác định tập trung đào tạo và hỗ trợ nghệ nhân như xây dựng cơ chế đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng cho nghệ nhân, hỗ trợ tài chính để họ mở lớp truyền dạy tại chỗ, duy trì đội chiêng, đội văn nghệ, qua đó giải quyết vấn đề kế cận và thu nhập. Đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số và quảng bá văn hóa, du lịch, cụ thể là xây dựng Đề án số hóa di sản cồng chiêng (thu âm, quay phim, tái hiện lễ hội bằng công nghệ 3D/VR/AR) để tạo ra các sản phẩm du lịch số độc đáo; phát triển "Không gian số di sản Đắk Lắk" để quảng bá hình ảnh địa phương trên các nền tảng mạng xã hội và tiếp cận thị trường toàn cầu. Cùng với đó, Đắk Lắk sẽ phối hợp với các tỉnh lân cận xây dựng "Con đường di sản cồng chiêng-đại ngàn-biển xanh", mở rộng chuỗi cung ứng du lịch, thu hút du khách từ các vùng lân cận.

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số không chỉ mang ý nghĩa bảo vệ bản sắc, mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển du lịch bền vững và tăng trưởng kinh tế bao trùm. Tại Đắk Lắk, việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa bảo tồn di sản với phát triển du lịch cộng đồng chính là cách tốt nhất để đảm bảo rằng: "Mỗi âm vang cồng chiêng ngân lên không chỉ là niềm tự hào văn hóa, mà còn là tiếng chuông gọi khách, mang lại thu nhập và hạnh phúc cho cộng đồng".

An Nhiên

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/bien-di-san-van-hoa-thanh-don-bay-phat-trien-kinh-te-ben-vung-cho-cong-dong-post498557.html