Bờ Vịnh (Hoa Kỳ): Triển vọng năng lượng năm 2024 (Kỳ 1)

Báo cáo Triển vọng năng lượng Bờ Vịnh (GCEO) 2024 đã tập hợp ý kiến đóng góp từ hàng chục tổ chức công nghiệp, chính phủ tiểu bang, dân sự và thương mại trong khu vực Bờ Vịnh của Hoa Kỳ.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

GCEO hàng năm được thiết kế để cung cấp cho các bên liên quan cái nhìn tổng quan về các xu hướng hiện tại và triển vọng cho ngành năng lượng của khu vực và các lĩnh vực khác nhau liên quan. GCEO là sản phẩm của Trung tâm nghiên cứu năng lượng (CES) của Đại học tiểu bang Louisiana. Trừ phi có quy định khác thì khu vực “Bờ biển vùng Vịnh” (Bờ Vịnh) của Hoa Kỳ đặc biệt chỉ đề cập đến các tiểu bang Texas, Louisiana, Mississippi và Alabama.

1.1 Liệu một cuộc suy thoái kinh tế có còn xảy ra?

Trong quá trình soạn thảo GCEO 2022, nhiều nhà dự báo trong nước đã dự báo về một cuộc suy thoái kinh tế bắt đầu trong năm 2023 song cho tới nay cuộc suy thoái đó vẫn chưa xảy ra. Kể từ khi đại dịch COVID-19 gây ra suy thoái kinh tế (Quý 1/2020), nền kinh tế Hoa Kỳ hiện tiếp tục có dấu hiệu tăng trưởng. Ước lượng số công ăn việc làm mới ở Hoa Kỳ (9/2023) tiếp tục tăng cho thấy sự gia tăng và mức độ công ăn việc làm mới hiện tại cao hơn khoảng 3% so với trước đại dịch đạt được đỉnh điểm vào tháng 2/2020. Với tỷ lệ thất nghiệp chỉ ở mức dưới 4%, nền kinh tế Hoa Kỳ đang ở trạng thái “no đủ việc làm”.

Tuy vậy, tăng trưởng công ăn việc làm cũng đi đôi với lạm phát. Năm 2022, GCEO đã thảo luận về một “cơn bão hoàn hảo” ít nhất với ba yếu tố thúc đẩy lạm phát: (1) nền kinh tế đang hoạt động ở mức no đủ lao động; (2) giá năng lượng cao được hỗ trợ bởi những thách thức liên quan đến ngành năng lượng và căng thẳng địa chính trị; và (3) gói trợ cấp tài chính liên bang được thúc đẩy một phần bởi hai chương trình chi tiêu lớn bơm ngân sách vào nền kinh tế tăng trưởng “nóng”. Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) phản ứng bằng cách tăng lãi suất trong năm qua nhằm mục đích giảm tỷ lệ lạm phát. Tại thời điểm viết bài này (cuối năm 2023), lãi suất Cục dữ trữ Liên bang (FED) là trên 5% sau khi tăng từ mức 0% vào đầu năm 2022. Năm 2022, nhóm tác giả đã báo cáo dữ liệu kinh tế đất nước ở mức đáng lo ngại nhất khi mức lương tăng ở Mỹ không theo kịp lạm phát, do đó, thu nhập thực tế theo giờ của người lao động đã giảm khoảng 3% năm trước khi phát hành GCEO 2023.

Hiện nguy cơ suy thoái kinh tế vẫn chưa kết thúc và một số nhà phân tích trong nước vẫn đang dự báo về một cuộc suy thoái kinh tế mới. Tại thời điểm này (cuối năm 2023), nhóm tác giả vẫn chưa biết liệu nền kinh tế đất nước sẽ trải qua giai đoạn “hạ cánh mềm” hay suy thoái kinh tế vẫn đang diễn ra trong tương lai gần? Tuy vậy, tin tốt lành là tại thời điểm viết báo cáo này thì tỷ lệ lạm phát đang bắt đầu quay đầu đi xuống chậm dần. Trong dữ liệu những tháng gần đây nhất (9/2023), mức giá cả sinh hoạt tăng cao hơn khoảng 3,7% so với cùng kỳ năm trước theo Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và Chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) là thước đo lạm phát ưa thích của FED thì mức giá đã tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Để tiện so sánh, thu nhập bình quân mỗi giờ của người lao động đã tăng 3,6%. Do đó, tùy thuộc vào thước đo lạm phát của FED thì thu nhập hàng tuần của người lao động gần như tăng hoặc giảm trong năm qua. Trên cơ sở hằng tháng thì tỷ lệ lạm phát tiếp tục trên đà giảm chậm ở cả CPI và PCE.

Trên bình diện quốc tế, tăng trưởng kinh tế cũng đang tiếp tục diễn ra với việc Hoa Kỳ, Trung Quốc và Ấn Độ đều tiếp tục có mức tăng trưởng GDP thực tế theo dữ liệu gần đây nhất. Về lĩnh vực năng lượng, theo các công bố về các dự án định hướng xuất khẩu hàng hóa thì cơ hội kinh doanh thương mại dành cho ngành năng lượng Hoa Kỳ tiếp tục được thúc đẩy bởi nhu cầu quốc tế. Do đó, mặc dù một cuộc suy thoái kinh tế có thể sắp xảy ra nhưng đây không phải là trường hợp cơ bản của GCEO.

Mô hình GCEO 2024 giả định rằng lạm phát tiếp tục giảm chậm lại theo mục tiêu của FED là từ 2% đến 3% trong vài năm tới. Tăng trưởng tiền lương sẽ dần dần bắt đầu vượt xa mức lạm phát và nhu cầu năng lượng trên toàn cầu sẽ tiếp tục tăng. GCEO 2024 dự báo năng lượng dài hạn sẽ có bước tăng trưởng nhu cầu, điều này dẫn đến xuất khẩu năng lượng của Hoa Kỳ tăng lên, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng của các nước đang phát triển. Nếu nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái thì điều này sẽ làm giảm nhu cầu đối với các sản phẩm năng lượng trong ngắn hạn, khiến những dự báo này trở nên quá mức lạc quan.

1.2 Nỗ lực loại bỏ carbon: Cân bằng giữa khả năng cạnh tranh về giá cả chi phí và giảm phát thải khí nhà kính

Quá trình loại bỏ carbon, đặc biệt là quá trình loại bỏ carbon trong lĩnh vực công nghiệp, tiếp tục đảm nhận một tầm quan trọng và cấp bách mới mỗi năm. Thỏa thuận Paris 2016 về giải quyết vấn đề do con người tạo ra lượng khí thải (GHG) đã được 190 quốc gia phê chuẩn, chiếm 97% dân số toàn cầu. Để có cái nhìn về sự chú ý ngày càng tăng về vấn đề này, Nghị định thư Kyoto ký năm 1997 chỉ chiếm có 14% lượng khí thải toàn cầu so với mức 97% của Thỏa thuận Paris. Những sáng kiến và cam kết về chính sách giảm phát thải khí nhà kính không chỉ giới hạn ở các hoạt động quốc tế. Năm 2022, Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật về biến đổi khí hậu toàn diện nhất cho đến nay: đạo luật Giảm lạm phát (IRA). Thống đốc tiểu bang Louisiana John Bel Edwards cam kết tiểu của ông đặt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính từ 25% đến 28% vào năm 2025 và trung hòa hoàn toàn carbon vào năm 2050. Với kết quả giành chiến thắng trong bầu cử, tân Thống đốc tiểu bang Louisiana, Jeff Martin Landry lên nắm quyền từ tháng 1/2024, có thể đề ra những chính sách mới với mục tiêu sẽ thay đổi.

Chúng ta vẫn đang trong giai đoạn đầu của kế hoạch 10 năm chi tiêu ngân sách cho chương trình cắt giảm khí phát thải như quy định trong IRA (8/2022). Đạo luật IRA có ba thành phần cốt lõi: (1) tăng thuế doanh nghiệp, (2) chăm sóc sức khỏe và (3) năng lượng và biến đổi khí hậu. Đặc biệt là năng lượng và biến đổi khí hậu chiếm tới 84% ngân sách chi tiêu của đạo luật. Trong GCEO năm 2022, một số khoản chi tiêu cụ thể đã được đề cập trong đạo luật này.

Về cơ bản, ba thành phần cốt lõi của IRA đang ngày càng trở nên phù hợp với chiến lược loại bỏ carbon của khu vực Bờ Vịnh bởi các công ty năng lượng. Tất cả những nội dung này sẽ được trình bày chi tiết hơn trong suốt tài liệu báo cáo này nhưng được nhấn mạnh tại GCEO 2024. Thứ nhất, nhu cầu về năng lượng của Hoa Kỳ là tương đối lớn trong thập kỷ qua, và xu hướng này được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng. Một mặt, tăng trưởng kinh tế làm gia tăng nhu cầu năng lượng. Mặt khác, tính hiệu quả lại làm giảm nhu cầu năng lượng. Tại Hoa Kỳ, cả hai hiệu ứng này tương đối là cân bằng. Thứ hai, sản lượng dầu mỏ của Hoa Kỳ đã tăng 83%, khí đốt tự nhiên: 47% và năng lượng tái tạo: 51% trong vòng 10 năm qua. Do đó, nhu cầu năng lượng trong nước là tương đối bằng phẳng trong khi nguồn cung năng lượng thì lại tăng lên. Thứ ba, sự gia tăng sản xuất năng lượng đã tạo điều kiện thuận lợi nhờ xuất khẩu các sản phẩm gốc hydrocarbon, bao gồm nhiên liệu lỏng, sản phẩm hóa học, phân bón và polyme.

Hiện các công ty năng lượng ngày càng cho thấy khách hàng từ khắp nơi trên thế giới đang yêu cầu (1) lưu trữ lại lượng khí thải CO₂ trong vòng đời một cách đáng tin cậy và (2) cắt giảm lượng khí thải CO₂. Các nhà đầu tư toàn cầu cũng đang ngày càng xem xét cường độ carbon khi đưa ra quyết định nơi triển khai vốn đầu tư. Nhằm thu hút vốn đầu tư và duy trì nhu cầu, các nhà sản xuất dựa trên hydrocarbon đang cân bằng hai mục tiêu: thứ nhất, các công ty phải duy trì tính cạnh tranh về mặt chi phí vì nếu đầu tư quá mức vào việc cắt giảm lượng khí thải thì sản phẩm có thể trở nên quá đắt đỏ đối với thị trường toàn cầu; thứ hai, các công ty cũng tìm kiếm danh mục hồ sơ phát thải cạnh tranh. Nếu lĩnh vực sản xuất bỏ qua lời kêu gọi loại bỏ carbon và chỉ tập trung vào khoản chi phí đầu tư vốn thì lĩnh vực này cũng có thể gặp bất lợi về cạnh tranh trong tương lai.

Tuy vậy, quá trình loại bỏ carbon dự kiến sẽ tốn kém về mặt nguồn tiền đầu tư, vì vậy, các công ty năng lượng đang cố gắng tận dụng khoản ngân sách trợ cấp của Liên bang thông qua hai đạo luật IRA và Việc làm và đầu tư cơ sở hạ tầng (IIJA) để thực hiện các khoản đầu tư vốn trả trước nhằm hỗ trợ cắt giảm lượng khí thải CO₂ trong tương lai. Các công ty đang thường đặt ra câu hỏi, chẳng hạn như: Có thể giảm lượng khí thải là bao nhiêu với một công nghệ nhất định? Thị trường toàn cầu sẽ trả tiền phí bảo hiểm cho các sản phẩm có hàm lượng carbon thấp hơn trong tương lai? Những khoản trợ cấp hiện tại có sẵn thông qua IRA? Chính vì vậy mà GCEO 2024 coi việc đạt được sự cân bằng là một sự thách thức lớn, do đó cần phải tạo ra tác động đáng kể những cơ hội lẫn rủi ro đáng kể đối với nền kinh tế khu vực về mặt lâu dài.

1.3 Bài học rút ra từ cuộc xung đột ở Ukraine?

Quay trở lại đầu tháng 2/2022 khi giá dầu thô ngọt nhẹ West Texas Intermediate (WTI) được giao dịch ở mức khoảng 90 USD/thùng và khí đốt tự nhiên Bờ Vịnh của Hoa Kỳ được giao dịch ở mức khoảng 6 USD/nghìn feet khối (thousand cubic feet -Mcf). Như vậy, cả hai thị trường dầu khí đang ở trạng thái “bù hoãn bán”, nghĩa là các hợp đồng tương lai được giao dịch thấp hơn mức giá giao ngay được dự kiến khi hợp đồng đáo hạn. Vì vậy, thị trường đã dự đoán giá hàng hóa năng lượng sẽ giảm trong những tháng tới đây song đây không phải là những gì sẽ xảy ra.

Từ tháng 2/2022 đã nổ ra cuộc xung đột Nga-Ukraine. Trước khi cuộc xung đột bắt đầu, Nga là nước sản xuất dầu thô và khí đốt tự nhiên lớn thứ hai trên toàn cầu, đứng sau Hoa Kỳ. Một điều cũng cần lưu ý là tại thời điểm đó, đường ống Nord Stream 2 chạy xuyên qua biển Baltic từ Nga đến Đức, dự kiến sẽ khánh thành nhằm mở rộng đáng kể sản lượng xuất khẩu khí đốt tự nhiên từ Nga sang thị trường châu Âu.

Tuy nhiên, thị trường toàn cầu đã có phản ứng ngay lập tức trước cuộc xung đột Nga-Ukraine khi thị trường trải qua một đợt giá hàng hóa năng lượng tăng vọt lên mức giá dầu thô ngọt nhẹ WTI đạt đỉnh hơn 120 USD/thùng và giá dầu thô Brent tại Châu Âu cũng đạt đỉnh hơn 130 USD/thùng, đồng thời, giá khí đốt tự nhiên chuẩn giao ngay của châu Âu tại Trung tâm giao dịch ở Hà Lan (Title Transfer Facility -TTF) đạt đỉnh trên 70 USD/MMBtu (đơn vị nhiệt của Vương quốc Anh) song giá khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ lại không tăng nhiều, trong khi đó, giá giao dịch tại Trung tâm phân phối đường ống dẫn khí đốt tự nhiên Henry Hub (tiểu bang Louisiana, Hoa Kỳ) thì lại bật tăng lên mức cao chưa từng thấy trong hơn một thập kỷ, điều này gây quan ngại cho người tiêu dùng Hoa Kỳ khi hóa đơn tiện ích điện nước mùa hè 2023 bắt đầu tăng đột biến.

Vào thời điểm đó, trên các phương tiện truyền thông đại chúng tràn ngập toàn những câu chuyện về giá xăng tăng đạt mức lịch sử lớn. Một điều thật đáng kinh ngạc khi nhận thấy thị trường đã điều chỉnh nhanh như thế nào trong năm qua. Khí đốt tự nhiên có lẽ vẫn là mối quan ngại lớn nhất sau cuộc xung đột Nga-Ukraine được giao dịch ở mức giá dưới 3 USD mỗi nghìn feet khối (thousand cubic feet-MCF) tại Bờ Vịnh của Hoa Kỳ. Giá dầu thô bất chấp sự tăng giá gần đây chỉ vài tuần trước khi công bố báo cáo này thì cũng đang hội tụ các tiêu chuẩn giá giao dài hạn.

Trên bình diện thế giới, giá năng lượng quốc tế cũng đã bị ảnh hưởng nhiều hơn so với giá năng lượng ở Hoa Kỳ. Vào thời điểm trên, giá khí đốt tự nhiên của Châu Âu (TTF của Hà Lan), đang được giao dịch ở mức xấp xỉ 50 USD/MMBtu, tức giá cao hơn gấp 15 lần so với mức giá của Bờ Vịnh của Hoa Kỳ. Nhà sản xuất khí đốt tự nhiên Nhật Bản-Hàn Quốc (JKM), thì lại đang giao dịch với mức giá khoảng 18USD/MMBtu, cao gấp hơn năm lần so với giá ở Bờ Vịnh của Hoa Kỳ.

GCEO 2024 nhận thức rằng thị trường dầu khí toàn cầu sẽ tiếp tục ngày càng dựa vào Hoa Kỳ như là một thị trường đáng tin cậy cung cấp nguồn năng lượng và các sản phẩm dựa trên hydrocarbon. Dự báo nhu cầu dầu khí trên thế giới sẽ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư trong khu vực Bờ Vịnh của Hoa Kỳ và duy trì thêm một thập kỷ tăng trưởng sản lượng dầu khí. Cuộc xung đột Nga-Ukraine đã giúp làm gia tăng tầm quan trọng mang tính quốc tế của Bờ Vịnh của Hoa Kỳ với tư cách là nhà cung cấp sản phẩm dựa trên năng lượng và hydrocarbon trên toàn cầu.

Mô hình GCEO 2024 đã đưa ra giả định rằng cuộc chiến ở Ukraine vẫn tiếp diễn, phương Tây cũng sẽ tiếp tục áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga. Giá hàng hóa toàn cầu phần lớn đã được điều chỉnh trước cú sốc nguồn cung toàn cầu này và mọi tác động sẽ tiếp tục giảm dần theo thời gian. Cuộc chiến Nga-Ukraine đã góp phần làm tăng cường tầm quan trọng quốc tế của Bờ Vịnh của Hoa Kỳ với tư cách là nhà cung cấp năng lượng mang tính toàn cầu.

1.4 Các chính sách hạn chế nguồn cung

Như đã đề cập trong GCEO 2022, ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã ban hành sắc lệnh hành pháp (executive order-EO) tạm dừng các hợp đồng cho thuê ngoài khơi thuộc sở hữu Liên bang và vạch ra các kế hoạch cắt giảm phát thải khí nhà kính (GHG) trước những quan ngại về biến đổi khí hậu toàn cầu. Theo đó, EO trên đã chỉ đạo một cách rõ ràng Bộ trưởng Nội vụ Hoa Kỳ “tạm dừng các hợp đồng cho thuê dầu khí mới trên đất công hoặc vùng nước ngoài khơi trong khi chờ hoàn thành hợp đồng cũ để rà soát lại một cách toàn diện các hoạt động cấp phép và cho thuê dầu khí của Liên bang”. Phản ứng của ngành dầu khí đối với sắc lệnh EO này là rất tức thì cũng như thực hiện ngay các hành động pháp lý bởi một số doanh nghiệp dầu khí chịu ảnh hưởng tại các tiểu bang thuộc khu vực GCEO, nhằm nêu ra các thách thức dựa trên cơ sở của sắc lệnh EO và tính nhất quán của nó đối với các thẩm quyền và luật pháp trước đây của Quốc hội Hoa Kỳ. Tuy vậy, Bộ Nội vụ Hoa Kỳ đã hủy bỏ việc bán hợp đồng cho thuê ngoài khơi Vịnh Mexico như lên kế hoạch diễn ra vào tháng 3/2021. Đến tháng 6 cùng năm, Tòa án Liên bang đã đưa phán quyết sơ bộ tạm thời cho phép Cục Quản lý đất đai (BLM) và Cục Quản lý năng lượng đại dương (BOEM) là những cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện việc bán cho thuê vùng đất và vùng nước thuộc sở hữu Liên bang, tiếp tục triển khai tiến trình cho thuê đồng thời xem xét thực tiễn các hợp đồng cho thuê dầu khí Liên bang đã thực hiện.

Tháng 11/2021, giao dịch bán hợp đồng thuê số 257 được thực hiện với diện tích hơn 80 triệu mẫu đất Anh (1 mẫu Anh tương đương 4.046m2) được chào bán với giá 192 triệu USD. Chỉ sau vài ngày khi hợp đồng cho thuê được tiến hành, Bộ Nội vụ Hoa Kỳ đã đưa ra đánh giá thực tiễn về các hoạt động cho thuê vùng đất, nước thuộc sở hữu Liên bang. Tháng 1/2022, Tòa án Quận Columbia ở thủ đô Washington D.C đã đưa ra phán quyết treo kết quả của hợp đồng thuê số 257, điều này dẫn đến việc tất cả các giao dịch bán cho thuê ngoài khơi còn lại thuộc Chương trình năm năm (2017-2022) đã bị hủy bỏ và không thấy có dấu hiệu nào cho thấy Chính quyền Liên bang sẽ có ý định tiếp tục theo đuổi một chương trình mới kéo dài 5 năm vào tháng 6/2022 nhằm đáp ứng yêu cầu quy định của đạo luật về Đất đai ngoài thềm lục địa (Outer Continental Shelf Lands Act-OCS). Sau đó, Tổng thống Biden đã ký ban hành IRA thành luật (8/2022), dẫn đến việc hợp đồng cho thuê số 257 vốn dĩ đã bị bỏ quên trước đó, nay đã được khôi phục lại.

Trong GCEO 2022, các đánh giá đã tỏ sự lạc quan một cách thận trọng khi cho rằng có một sự không chắc chắn xung quanh việc cho thuê ngoài khơi đã bị lắng xuống song thực tế điều không chắc chắn vẫn tiếp tục diễn ra khi vào tháng 2/2023 (tức là sáu tháng sau khi IRA được thông qua), BOEM đã công bố bản Hợp đồng cho thuê số 259 với tổng diện tích 73 triệu mẫu Anh. Sau đó 1 tháng, Hợp đồng cho thuê số 259 đã được

thực hiện với 1,6 triệu mẫu Anh đất được cho thuê với giá khoảng 264 triệu USD. Tiếp đến tháng 8 cùng năm, BOEM tiếp tục công bố các thửa đất có sẵn để ký hợp đồng cho thuê số 261 với tổng diện tích 67 triệu mẫu Anh. Trong khi đó, theo đạo luật IRA, hiện có diện tích tối thiểu 60 triệu mẫu Anh sẵn có để cho thuê làm trang trại điện gió ngoài khơi. Tuy vậy, BOEM sau đó đã cắt giảm diện tích cho thuê sẵn có đối với các hợp đồng cho thuê ước khoảng 6 triệu mẫu Anh do quan ngại về những tác động đối với loài cá voi tấm sừng ở Vịnh Mexico. Ngoài ra, Cục An toàn và thực thi môi trường (BSEE) cũng đã công bố yêu cầu góp ý kiến về đề xuất quy định đối với việc bảo vệ môi trường sống quan trọng dành cho loài cá voi tấm sừng (0648-BL86) mà giới trong ngành năng lượng cho rằng điều này cũng có thể tác động đến hoạt động khai thác thăm dò dầu khí ngoài khơi Vịnh Mexico (7/2023). Hiện đề xuất quy định BSEE về việc loại bỏ diện tích cho thuê khỏi hợp đồng cho thuê đang được thương thảo, thì cũng đang được tranh luận tại hệ thống tòa án các cấp. Tháng 9/2023, BOEM cũng đã công bố Chương trình cho thuê 5 năm mới (Five-Year Offshore Oil and Gas Leasing Program-PFP), giai đoạn 2024-2029, bao gồm ba lần mở bán hợp đồng cho thuê là mức thấp nhất trong lịch sử 70 năm của Chương trình này. Đáp trả lại, Hạ nghị sĩ liên bang Garret Graves (đảng Cộng hòa, tiểu bang Louisiana) đã giới thiệu ra Hạ viện dự luật mang tên Đạo luật sản xuất BRIDGE 2023 (H.R.5616) quy định sẽ “bắt buộc thực hiện ít nhất bốn đợt mở bán hợp đồng cho thuê dầu thô và khí đốt ngoài khơi vào năm 2024 và 2025”, thiết lập các điều khoản cụ thể và giảm bớt gánh nặng về mặt pháp lý nhằm giải quyết sự chậm trễ của Chính quyền Biden trong việc công bố kế hoạch cho thuê 5 năm theo quy định tại đạo luật OCS. Tại thời điểm viết báo cáo này thì dự luật này vẫn đang nằm tại một ủy ban của Hạ viện Hoa Kỳ xem xét (10/2023).

Mặc dù hoạt động khoan thăm dò khai thác dầu khí ngoài khơi vẫn tiếp tục triển khai song GCEO2024 nhận thấy những hành động khai thác trên sẽ gây ảnh hưởng đến sự không chắc chắn đối với các công ty đầu tư dài hạn vào các dự án dầu khí ở Vịnh Mexico. Một số đại diện trong ngành năng lượng đã suy đoán rằng sẽ phải mất nhiều năm nữa để cho điều này tác động đến sản xuất dầu khí ở Vịnh Mexico do thời gian lập kế hoạch cho các dự án này kéo dài. Tuy vậy, một số người khác thì lại lưu ý rằng những hành động này sẽ tác động trực tiếp đến những người lao động ủng hộ dự án này. Tuy nhiên, mô hình GCEO đã giả định rằng những tác động tiêu cực trên là ở mức tương đối nhỏ nằm trong khoảng thời gian dự báo song tác động lâu dài của các chính sách đó có thể lớn hơn tác động ngắn hạn do thời gian kéo dài của các dự án khai thác dầu khí ngoài khơi.

Thời gian biểu cho các hợp đồng cho thuê ở ngoài khơi:

- Lộ trình tranh cử tổng thống năm 2020: Ứng cử viên Joe Biden (đảng Dân chủ) cho biết ông sẽ cấm “cấp phép khai thác dầu khí mới” trên đất và vùng nước của Liên bang.

- 1/2021: Ban hành sắc lệnh hành pháp “tạm dừng các hợp đồng thuê dầu khí mới” trên đất và vùng nước công trong quá trình “xem xét và đánh giá lại toàn diện” các hoạt động cho thuê.

- 3/2021: Hợp đồng cho thuê ngoài khơi Vịnh Mexico bị hủy bỏ.

- 6/2021: Tòa án Liên bang ra phán quyết sơ bộ yêu cầu Cục Quản lý đất đai (BLM) và

Cục Quản lý năng lượng đại dương (BOEM) tiếp tục cho thuê khi quá trình đánh giá được hoàn tất.

- 11/2021: Hợp đồng cho thuê số 257 ở Vịnh Mexico được tiến hành với gần 81 triệu mẫu Anh có sẵn để cho thuê, trong đó gần 1,7 triệu mẫu Anh được cho thuê với giá gần 192 triệu USD.

- 1/2022: Tòa án ở Washington, D.C. bỏ qua kết quả của Hợp đồng cho thuê số 257.

- 6/2022: Bộ Nội vụ Hoa Kỳ thông báo rằng tất cả hợp đồng cho thuê còn lại trong 5 năm hiện tại đều bị hủy bỏ. Việc chấm dứt hợp đồng cho thuê dầu khí ngoài khơi Vịnh Mexico có hiệu lực.

- Tháng 8/2022: Đạo luật Giảm lạm phát (IRA) được ký ban hành thành luật. Hợp đồng cho thuê số 257 được phục hồi. Việc cho thuê dầu khí ngoài khơi được nối lại và gắn liền với sự phát triển điện gió ngoài khơi.

- 2/2023: BOEM công bố các lô dầu khí sẵn có theo Hợp đồng cho thuê số 259 với tổng trị giá gần 73 triệu mẫu Anh.

- 3/2023: Hợp đồng cho thuê số 259 được thực hiện với gần 1,6 triệu mẫu Anh được cho thuê với giá gần 264 triệu USD.

- 8/2023: BOEM công bố các lô dầu khí sẵn có theo Hợp đồng cho thuê số 261 với tổng diện tích gần 67 triệu mẫu Anh. Đạo luật IRA đã yêu cầu dành mức cho thuê tối thiểu là 60 triệu mẫu Anh đang khai thác dầu khí để cấp hợp đồng thuê điện gió ngoài khơi. Do vậy, gần 6 triệu mẫu Anh bị cắt khỏi kế hoạch ban đầu sau vụ kiện bảo vệ loài cá voi tấm sừng Rice.

- 9/2023: Tòa án Quận Tây của tiểu bang Louisiana ban hành phán quyết sơ bộ khôi phục các hoạt động liên quan đến cá voi tấm sừng với diện tích thuê trước đây đã bị xóa khỏi Hợp đồng cho thuê số 261. Tòa án lưu động số 5 sau đó đã ban hành phán quyết từ chối yêu cầu của BOEM về việc giữ nguyên lệnh cấm nhưng lại đẩy lùi việc mua bán cho đến tháng 11/2023.

- 9/2023: BOEM công bố chương trình cho thuê mới trong 5 năm, bao gồm ba lần mở bán hợp đồng cho thuê dầu khí từ năm 2024-2029 là mức thấp nhất trong lịch sử 70 năm tồn tại của chương trình cho thuê. Sự việc này xuất hiện sau sự chậm trễ đáng kể (kế hoạch 5 năm trước đó đã hết hạn vào năm 2022).

Mô hình GCEO 2024 còn xem xét sự không chắc chắn xung quanh việc giảm mức độ cho thuê dầu khí ngoài khơi. Trong khoảng thời gian dự báo là 3 năm, tác động lên công ăn việc làm có thể sẽ là nhỏ song những tác động lâu dài đối với nguồn cung dầu khí và công ăn việc làm ở thượng nguồn đang có thể sẽ lớn hơn nếu sự không chắc chắn xung quanh việc cho thuê đất liền và ngoài khơi tiếp tục diễn ra trong tương lai.

1.5 Cấp phép: Nút thắt cổ chai mới?

Như đã đề cập trước đây, Chính phủ Liên bang đã phân bổ hàng tỷ đô la cho việc loại carbon trong hệ thống năng lượng thông qua hai đạo luật IIJA và IRA. Tuy vậy, nhiều quan chức và chuyên gia ở cả cấp chính phủ và ngành dầu khí đã trả lời câu hỏi liệu việc cấp phép có phải là nút thắt cổ chai mới dẫn đến việc xác định tiến độ triển khai nguồn vốn đầu tư thuộc hai đạo luật nêu trên hay không. Trong những năm trước, GCEO đã thảo luận về những hạn chế chuỗi cung ứng như những nút thắt tiềm ẩn hạn chế sự phát triển ngành dầu khí. Trong khi GCEO nhận được phản hồi rằng chuỗi cung ứng vẫn chưa trở lại tình trạng như trước đại dịch COVID-19 về tốc độ thu mua nguyên liệu, khả năng xin được giấy phép là yếu tố hạn chế thường được nhắc đến nhiều hơn.

Ví dụ vào tháng 5/2023, EPA đã mở một kênh công khai bình luận của công chúng về việc trao quyền ưu tiên cho tiểu bang Louisiana trong việc trung hòa carbon. Nhiều người suy đoán rằng tiểu bang Louisiana sẽ nhận được quyền ưu tiên cho phép các mỏ giếng Loại VI vào mùa thu năm 2023, tuy vậy, tính đến thời điểm công bố GCEO 2024 thì điều này đã không xảy ra. Tiếp đó, EPA còn phải đối mặt với sự chỉ trích vì đã kéo dài thời gian lấy ý kiến và trì hoãn quá trình cấp phép trên.

Sự chậm trễ cấp phép không chỉ liên quan đến việc thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS) được chứng minh bằng độ trễ sơ cấp Loại VI. Ở địa phương thì cũng xuất hiện những bất đồng về phát triển năng lượng mặt trời khi chính quyền địa phương và chủ đất bày tỏ sự quan ngại về việc cạnh tranh với lợi ích nông nghiệp. Ngoài ra, cũng còn có những phản ứng dữ dội ở địa phương đối với các dự án CCUS mà được đưa tin nổi bật kênh tin tức địa phương.

Mô hình GCEO 2024 còn giả định rằng các hạn chế trong chuỗi cung ứng toàn cầu tiếp tục có phần giảm bớt, trong khi sự không chắc chắn xung quanh việc cấp phép gây ra trở ngại trực tiếp hơn trong dự án phát triển.

2. Sản xuất và giá dầu thô và khí đốt tự nhiên

2.1 Sản xuất dầu thô và khí đốt tự nhiên

Sản lượng dầu mỏ của Hoa Kỳ vừa mới đạt đến đỉnh cao như trước đại dịch COVID-19, với sản lượng hiện tại ở mức khoảng 13 triệu thùng mỗi ngày (MMbbl/d), gần như chính xác mức đã trải qua gần cuối năm 2019. Sản lượng khí đốt tự nhiên tiếp tục lập mức cao mới và hiện đạt xấp xỉ 124 tỷ feet khối mỗi ngày (Bcf/d) hoặc cao hơn khoảng 6% so với mức đỉnh trước đại dịch COVID-19. Dữ liệu dầu khí Bờ Vịnh được thể hiện trong Hình 1. Sản lượng dầu thô và khí đốt tụ nhiên ở Bờ Vịnh phục hồi nhanh hơn so với cả nước sau đại dịch và sản lượng dầu thô ngày nay của Bờ Vịnh chiếm khoảng 8,5% so với mức đỉnh đạt trước đại dịch. Sản lượng khí đốt tự nhiên của Bờ Vịnh cũng đạt cao hơn 16%.

Hình 1: Sản lượng dầu thô và khí đốt tự nhiên của Bờ Vịnh

Hình 2 thì nêu bật mối quan hệ giữa số lượng giàn khoan của Hoa Kỳ và giá dầu. Công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes (Houston, tiểu bang Texas) đã báo cáo có tới 250 giàn khoan đang hoạt động (8/2020). Tuy nhiên, không có gì đáng ngạc nhiên khi sự sụt giảm số lượng giàn khoan thì lại phản ánh sự sụt giảm của giá dầu thô ngọt nhẹ WTI (tiểu bang Texas) khi giá giao dịch chạm đáy ở mức dưới 17 USD/thùng (4/2020). Tuy nhiên, số lượng giàn khoan sau đó tăng trở lại mức đỉnh điểm là 780 (12/2022). Mặc dù con số này cao hơn gấp ba lần mức đáy trong thời gian đại dịch COVID-19 song số lượng giàn khoan vẫn ở mức thấp hơn đáng kể so với mức đã trải qua trong năm 2018 và 2019. Trong suốt năm 2023, số lượng giàn khoan đã giảm dần và trong tháng gần đây nhất số lượng giàn khoan hiện ở mức dưới 650 giàn một chút (8/2023). Sự sụt giảm này phản ánh sự sụt giảm của giá dầu (có độ dung sai). Như nội dung được thảo luận trong Phần 7, GCEO 2024 dự báo sản lượng dầu thô và khí đốt sẽ tiếp tục tăng, mặc dù sẽ cần ít số lượng giàn khoan hơn để dành cho sản xuất nhiều hydrocarbon hơn. Do đó, ngành này dự kiến sẽ tiếp tục sản xuất nhiều hơn với ít đầu vào hơn, một chỉ dấu cho thấy hiệu quả tiếp tục được cải thiện. Mặc dù không được thể hiện trong Hình 2 song số lượng giàn khoan ở Bờ Vịnh dịch chuyển song song với số lượng giàn khoan của Hoa Kỳ nhằm thể hiện một mô hình tương tự khi so sánh với giá dầu thô.

Hình 2: Giá dầu thô và số lượng giàn khoan của Hoa Kỳ

Hình 3 hiển thị mức độ hoạt động của giàn khoan tại bảy mỏ giếng đá phiến lớn của Hoa Kỳ theo định nghĩa của Báo cáo năng suất khoan giếng của EIA. Trong nhiều năm qua, GCEO đều đã lưu ý rằng Lưu vực Permian như là một vai trò đá phiến chiếm ưu thế của Hoa Kỳ và điều này vẫn tiếp tục. Lưu vực Permian cũng tiếp tục chiếm nhiều hơn hơn một nửa số giàn khoan đang hoạt động ở các mỏ giếng đá phiến. Tất cả bảy Lưu vực khai thác dầu đá phiến trong Hình 3 đều đã trải qua đợt giảm số lượng giàn khoan kể từ đầu năm 2023, do đó, hoạt động khoan thăm dò đã bị chậm lại là điều thường thấy chủ đề xuyên suốt các khu vực. Cụ thể sẽ tập trung nhiều hơn vào sản xuất dầu khí ở Bờ Vịnh trong tiểu mục 2.3 nêu dưới đây.

Hình 3: Số lượng giàn khoan ở bảy lưu vực dầu đá phiến lớn

2.2 Định giá hàng hóa

Hình 4 cho thấy các xu hướng gần đây về giá cả hàng hóa dầu thô và khí đốt tự nhiên. Bảng trên cùng hiển thị các xu hướng lịch sử của dầu thô và định giá “các thời kỳ”, trong khi bảng phía dưới trình bày lịch sử xu hướng định giá khí đốt tự nhiên. Giá khí đốt tự nhiên trong lịch sử cho thấy ba thời kỳ riêng biệt: (1) giai đoạn kéo dài những năm 90; (2) các giai đoạn bắt đầu từ cuộc khủng hoảng cung cấp/giá cả khí đốt tự nhiên những năm 2000; và (3) thời kỳ hậu suy thoái kỳ đến hiện tại. Những thời kỳ này khác nhau cả về cấp độ lẫn tính biến thiên. Câu hỏi liên quan được đặt ra trong GCEO 2024 là liệu giá khí đốt tự nhiên có bước vào một kỷ nguyên mới hay không điều đó phản ánh sự thâm nhập sâu hơn của thị trường khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ với thị trường toàn cầu. Trước sự xuất hiện xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG), thị trường Hoa Kỳ phải đối mặt với mức độ ảnh hưởng hạn chế về giá cả trước những thay đổi trong thị trường toàn cầu. Trước đó, GCEO 2023 đã nhận xét rằng cuộc xung đột Nga-Ukraina và các biện pháp trừng phạt áp đặt lên giá khí đốt tự nhiên của Nga cùng với thực tế là Hoa Kỳ hiện là nước sản xuất và xuất khẩu khí đốt tự nhiên lớn nhất thế giới, điều này có thể sẽ dẫn đến sự hội nhập nhiều hơn đáng kể song vẫn chưa phải là sự toàn diện, hội nhập. Một điều thú vị là cho đến nay, GCEO2024 chưa quan sát thấy có sự khác biệt so với “kỷ nguyên” thứ ba của giá khí đốt tự nhiên, với giá khí đốt tự nhiên hiện tại thực sự thấp hơn mức trung bình trong suốt kỷ nguyên thứ ba này. Sự thay đổi được biểu thị bằng độ lệch chuẩn trong sự thay đổi của giá trung bình hàng tháng.

Hình 4: Giá dầu thô và khí đốt tự nhiên được điều chỉnh theo lạm phát trong lịch sử

Xu hướng định giá dầu thô điều chỉnh theo lạm phát tiếp tục nhấn mạnh cuộc cách mạng độc đáo đã dẫn đến sự biến động giảm giá đáng kể so với các thời kỳ định giá trong quá khứ. Giá dầu thô trước đại dịch COVID-19 được hiển thị ở khoảng giữa của kỷ nguyên thứ ba. Đại dịch diễn ra khá đơn giản song đã làm sụp đổ giá dầu thô theo những cách chưa từng có xảy ra trong quá khứ. Giá dầu thô đã chạm đáy ở mức trung bình hàng tháng dưới 17 USD/thùng (4/2020) song sau đó phục hồi một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, giống như khí đốt tự nhiên, sự phục hồi nền kinh tế toàn cầu cùng với cuộc chiến ở Ukraine đã gây áp lực gia tăng đáng kể lên giá dầu trong năm 2022. Mặc dù giá dầu thô đã tăng một chút trong vài tháng cuối năm 2023 song vẫn nằm trong phạm vi thời đại thứ ba này và được dự báo sẽ suy giảm trong tương lai.

Hình 5 so sánh giá lịch sử và giá tương lai của cả giá dầu thô ngọt nhẹ WTI (bảng trên cùng) và Trung tâm phân phối khí Henry Hub. Giá khí đốt tự nhiên trung tâm (bảng dưới cùng). Không giống như Hình 4, cả hai giá hàng hóa năng lượng trên đều được thể hiện bằng đồng đô la trên danh nghĩa (tức là không điều chỉnh lạm phát). Ngoài ra, giá dầu thô tương lai được hiển thị cho dữ liệu gần đây nhất có sẵn cùng với giá tương lai được liệt kê trong hai phiên bản trước của GCEO2024 để minh họa cách thị trường tương lai đã phát triển trong vài năm qua.

Hình 5: Triển vọng giá dầu thô và khí tự nhiên

Hiện có một số quan sát đáng chú ý dựa trên Hình 5. Thứ nhất, thị trường tiếp tục dự báo rằng giá dầu hội tụ về lâu dài ở mức dưới 60 USD/thùng. Khi giá dịch chuyển ra ngoài phạm vi này do một cú sốc (ví dụ: đại dịch, căng thẳng địa chính trị, v.v.) thì thị trường tiếp tục dự đoán sự hội tụ về một mức giá dài hạn tương tự. Tại thời điểm viết GCEO2024, giá dầu thô đang trong tình trạng lạc hậu so với giá dự báo ở mức khoảng 78 USD/thùng vào cuối năm 2024. Giá khí đốt tự nhiên được minh họa ở phần dưới cùng của Hình 5. Điều thú vị là giá khí đốt tự nhiên thấp hơn đáng kể so với dự đoán năm 2022 vào thời điểm này, và như thể hiện trong Hình 4 giá khí đốt tự nhiên đang ở mức thấp nhất so với mức giá đã trải qua trong thập kỷ qua. Thật không thể tin được khi thấy giá sụt giảm nhanh đến mức nào khi giá khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ đã quay trở lại mức bình thường trong dài hạn sau nguồn cung toàn cầu bị gián đoạn đến từ cuộc xung đột Nga-Ukraine, điều này dẫn đến các biện pháp trừng phạt áp đặt lên dầu khí của Nga. Về lâu dài, thị trường tương lai dự báo giá khí đốt tự nhiên sẽ dao động trong khoảng từ 3,50 USD đến 5 USD/MMBtu. Thị trường Châu Âu và Châu Á chưa trải qua sự hội tụ nhanh chóng như các chuẩn mực trước cuộc xung đột Nga-Ukraine, và điều này đã tạo ra lợi thế so sánh cho Bờ Vịnh trong việc thu hút vốn đầu tư cho các dự án chế biến và xuất khẩu các sản phẩm có nguồn gốc hydrocarbon đến từ vùng Bờ Vịnh.

2.3 Triển vọng: Sản xuất dầu thô và khí tự nhiên

Hình 6 cho thấy dự báo sản lượng dầu thô và khí tự nhiên cho Bờ Vịnh dựa trên

mô hình của Công ty tư vấn Enverus ProdCast. Theo truyền thống, cả hai hình họa đều hiển thị dự báo hiện tại cũng như dự báo sau đó thể hiện trong các GCEO của hai năm qua.

Dự báo sản lượng dầu thô của Bờ Vịnh được dự đoán sẽ tăng trong hơn mức giá giao tương lai. Theo quan điểm chung, năm 2022 sản lượng dầu thô khu vực đạt trung bình 8,5 triệu thùng/ngày. Năm 2023, Công ty ProdCast ước tính sản lượng dầu thô của Bờ Vịnh sẽ đạt trung bình là 9,3 triệu thùng/ngày tương đương mức tăng khoảng 9%. Đến năm 2032, sản lượng dầu thô của Bờ Vịnh được dự báo sẽ đạt 11,6 triệu thùng/ngày. Dự báo sản lượng dầu này đã bị giảm nhẹ kể từ GCEO 2023. Giống như những năm trước thì có rất nhiều trữ lượng dầu dưới lòng đất để duy trì hoạt động trong một thập kỷ tăng trưởng sản xuất. Mặc dù không được hiển thị ở đây, Công ty Prodcast cũng ước tính sản lượng dầu thô của Hoa Kỳ sẽ tăng trong thập kỷ tới.

Hình 6: Dự báo sản lượng dầu thô và khí tự nhiên ở Bờ Vịnh

Hình 6 cũng cho thấy sản lượng khí đốt tự nhiên của Bờ Vịnh cũng được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong thập kỷ tới. Năm 2022, sản lượng khí đốt tự nhiên của Bờ Vịnh là khoảng 52 Bcf/ngày và theo công ty Prodcast ước tính sản lượng khí đốt tự nhiên của Bờ Vịnh sẽ tăng lên 56,2 Bcf/ngày (2023), tương đương mức tăng 7%, và sẽ đạt hơn 63 Bcf/ngày (2032). Do đó, cả sản xuất dầu và khí đốt tự nhiên trong khu vực đều được dự đoán sẽ trải qua một thập kỷ tăng trưởng bất chấp thực tế rằng giá dầu thô và khí đốt tự nhiên đều ở trạng thái thụt lùi. Mặc dù không được hiển thị bằng đồ họa song cả sản lượng dầu thô và khí đốt tự nhiên cũng được dự báo sẽ tăng trong thập kỷ tới.

Tuấn Hùng

LSU

Nguồn PetroTimes: https://nangluongquocte.petrotimes.vn/bo-vinh-hoa-ky-trien-vong-nang-luong-nam-2024-ky-1-704715.html