Các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc: Tiềm năng phát triển kinh tế dưới tán rừng
Các tỉnh vùng Trung du miền núi phía Bắc, nơi có đầy đủ tiềm năng và lợi thế để phát triển nguồn lâm sản ngoài gỗ lớn nhất nước. Nếu được đầu tư hiệu quả, việc phát triển kinh tế dưới tán rừng ở đây sẽ đem lại nguồn kinh tế lớn, đồng thời còn góp phần bảo vệ rừng và môi trường phát triển bền vững.
Hội nghị phát triển kinh tế dưới tán rừng các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc. Ảnh: Hương Quỳnh
Sáng 3/12, tại Lai Châu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) phối hợp với UBND tỉnh Lai Châu tổ chức Hội nghị trực tuyến "Phát triển kinh tế dưới tán rừng các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc".
747 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, chế biến gỗ và lâm sản
Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - NN&PTNT), các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc gồm 17 tỉnh có tổng diện tích rừng là trên 5,731 triệu ha, chiếm 39,6% tổng diện tích rừng toàn quốc.
Những năm qua, ngành công nghiệp chế biến gỗ tại các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc là ngành hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt trên 13%/năm. Năm 2020, sản lượng khai thác gỗ rừng trồng đạt 7,9 triệu m3 gỗ, ước đạt khoảng 9.480 tỷ đồng/năm. Các tỉnh có 747 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, chế biến gỗ và lâm sản; tổng nguồn thu dịch vụ môi trường rừng giai đoạn 2011-2020 hơn 7.750 tỷ đồng, riêng năm 2020 thu 1.239 tỷ đồng.
Các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc còn có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái với một số địa điểm đặc trưng thu hút du khách như: Vườn quốc gia Hoàng Liên có đỉnh Fansipan; Vườn quốc gia Bái Tử Long - Vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới... Từ đó, thu hút hàng trăm nghìn lượt khách du lịch đến tham quan; ước tính tổng chi tiêu của du khách khoảng 620 tỷ đồng, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và thu ngân sách của các tỉnh.
Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu Giàng Páo Mỷ khẳng định, thời gian qua, Lai Châu đã đẩy mạnh phát triển kinh tế rừng thông qua việc hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với các loại cây có giá trị kinh tế cao và chú trọng nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Đến nay, nhiều loại dược liệu quý hiếm được nhân dân bảo tồn và phát triển như: sâm Lai Châu, cây bảy lá một hoa... Nhờ đó, tỷ lệ che phủ rừng từng năm được nâng lên, đạt gần 51%; trên 70% số hộ dân tham gia trồng rừng và bảo vệ rừng có nguồn thu nhập ổn định.
Các đại biểu cho rằng, các tỉnh vùng Trung du miền núi phía Bắc, nơi có đầy đủ tiềm năng và lợi thế để phát triển nguồn lâm sản ngoài gỗ lớn nhất nước. Nếu được đầu tư, khai thác một các hiệu quả, khoa học, hợp lý việc phát triển kinh tế dưới tán rừng ở khu vực này không chỉ đem lại nguồn kinh tế lớn, đồng thời còn góp phần bảo vệ rừng và môi trường phát triển bền vững.
Tạo thêm nguồn lực kinh tế dưới tán rừng
Ví dụ, nếu triển khai tất cả các phương án giảm phát thải và đạt được lượng phát thải, đồng thời giữ mức phát thải của các diện tích còn lại ở mức bình thường thì các tỉnh trong khu vực dự kiến sẽ thu khoảng 51,27 triệu tấn CO2 có thể thương mại, với giá dự kiến là 5 USD/tín chỉ CO2 (theo giá chuyển nhượng cho Quỹ Đối tác các bon trong lâm nghiệp của khu vực Bắc Trung Bộ), tổng thu từ thương mại các-bon đạt khoảng 256 triệu USD cho giai đoạn 2021-2030, bình quân là 25,6 triệu USD/năm (tương đương 588 tỷ đồng/năm).
Phát biểu khai mạc tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, giai đoạn 2021-2030, ngành lâm nghiệp phát triển bền vững trên cơ sở quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên rừng; phát triển, sử dụng rừng theo hướng đa chức năng, đa giá trị, trên cơ sở tiềm năng, lợi thế của từng tiểu vùng, địa phương; nâng cao giá trị các sản phẩm của rừng theo chuỗi.
Về quy hoạch, Bộ NN&PTNT sẽ hoàn thiện quy hoạch lâm nghiệp quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, tiểu vùng; quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu tập trung cho từng tỉnh.
Về cơ chế, chính sách sẽ nghiên cứu, xây dựng chính sách, cơ chế đặc thù đối với từng loại rừng để phát huy giá trị loại rừng đó; hoàn thiện một số chính sách có liên quan đến phát triển lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng. Về khoa học công nghệ, nghiên cứu, lựa chọn, cung cấp giống cây rừng trồng, lâm sản ngoài gỗ, dược liệu... có năng suất, chất lượng để đưa vào sản xuất…
Chỉ đạo tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh, thời gian tới sẽ quan tâm tháo gỡ những vấn đề về thể chế và có chương trình, đề án riêng về phát triển dưới tán rừng cho vùng Trung du miền núi phía Bắc, không để bà con phát triển một cách tự phát.
Cùng với đó, kích hoạt tất cả các giá trị biến nông nghiệp không phải là sản lượng sản xuất nữa mà là kinh tế, dựa trên 3 trụ cột: tài nguyên bản địa, tinh hoa dân tộc và tinh hoa sáng tạo. Mặt khác, các địa phương phát triển bền vững dưới tán rừng là làm sao khai thác có kiểm soát, có chương trình, chủ thuyết, không làm mất đi giá trị hiện hữu của rừng. Đồng thời, tạo thêm nguồn lực kinh tế dưới tán rừng thành một chuỗi ngành hàng, tích hợp giữa du lịch sinh thái, du lịch miền núi nhằm tạo thu nhập cho bà con.
Từ năm 2016-2020, sản phẩm lâm sản ngoài gỗ xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam: sản phẩm mây tre, hồi, quế, thảo quả, sa nhân, nhựa thông. Các mặt hàng lâm sản ngoài gỗ xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng nhanh như sản phẩm mây tre, bình quân khoảng 30%/năm trong giai đoạn 2016-2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 608 triệu USD năm 2020. Sản phẩm quế, hồi tăng bình quân khoảng 50%/năm, kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đạt 245 triệu USD; dược liệu khoảng 90-110 triệu USD/năm; tinh dầu và dầu nhựa khoảng 100-110 triệu USD/năm.