Cần tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp thực hiện kiểm kê Khí nhà kính

Ngày 28/10, Quốc hội sẽ dành trọn một ngày để xem xét Báo cáo Giám sát chuyên đề về 'việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành'. Dù Luật này đã dành Chương VII cho việc giảm phát thải, nhưng yêu cầu kiểm kê Khí nhà kính (KNK) - nền tảng bắt buộc để thực thi cam kết Net Zero - lại đang gặp nhiều trở ngại.

 Việt Nam đang loay hoay thực hiện yêu cầu Kiểm kê khí nhà kính

Việt Nam đang loay hoay thực hiện yêu cầu Kiểm kê khí nhà kính

Kiểm kê KNK: Nền tảng bắt buộc của Cam kết Net Zero

Việt Nam cam kết giảm phát thải ròng về bằng "0" vào năm 2050. Để hiện thực hóa mục tiêu lịch sử này, Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2022) đã dành trọn vẹn Chương VII quy định về Biến đổi khí hậu, trong đó đề cập chi tiết việc giảm nhẹ phát thải Khí nhà kính (KNK).

Kiểm kê KNK được ví như việc khám sức khỏe và lập sổ sách kế toán môi trường cho doanh nghiệp. Ông Koji Fukuda, Cố vấn trưởng Dự án JICA SPI-NDC, cho biết: "Về bản chất, kiểm kê KNK cấp cơ sở được coi là một công cụ tính toán lượng phát thải và để hiểu nguồn gốc phát thải là từ đâu.

Ông cũng phân tích rõ: "Nếu không có kết quả kiểm kê KNK chính xác (lượng phát thải là bao nhiêu, phát thải từ nguồn nào: Điện năng, nhiên liệu, hay chuỗi cung ứng...), các giải pháp giảm phát thải trong Chương VII của Luật Bảo vệ môi trường 2020 sẽ chỉ là lý thuyết, không có mục tiêu cụ thể để triển khai".

Ông Koji Fukuda, Cố vấn trưởng Dự án JICA SPI-NDC

Ông Koji Fukuda, Cố vấn trưởng Dự án JICA SPI-NDC

Đứng trước áp lực thực hiện cam kết Net Zero, Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp lý quan trọng để khoanh vùng và kiểm soát các nguồn phát thải lớn. Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định 06/2022/NĐ-CP là cơ sở pháp lý để xác định lộ trình.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 06/2022/NĐ-CP, các cơ sở có mức phát thải khí nhà kính hằng năm từ 3.000 tấn CO2 tương đương trở lên phải triển khai hoạt động kiểm kê khí nhà kính.

Dựa trên tiêu chí này, ngày 18/01/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm 1.912 doanh nghiệp.

Cuối năm 2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường (cũ) tiếp tục đềxuấtcậpnhật thêm 981 cơ sở, nâng tổng số cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính hiện nay là 2.893 cơ sở. Các cơ sở này thuộc 6 lĩnh vực trọng điểm có mức phát thải lớn là: Công Thương, Giao thông Vận tải, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, và Thương mại Dịch vụ.

Với lộ trình cụ thể là phải hoàn thành báo cáo kiểm kê KNK đầu tiên trước ngày 31/3/2025.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, thời hạn 31/3/2025 đã trôi qua cho thấy sự khác biệt lớn giữa quy định và thực tiễn. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường vẫn chưa công bố chính thức về tiến độ và kết quả triển khai thực hiện kiểm kê KNK từ các doanh nghiệp theo tinh thần nêu.

Theo báo cáo sơ bộ từ các Bộ, ngành, tỉ lệ doanh nghiệp hoàn thành báo cáo đúng hạn còn rất thấp, cho thấy việc triển khai đang gặp nhiều trở ngại. Hàng loạt lý do đã cản trở tiến độ của doanh nghiệp, biến việc kiểm kê thành một "bài toán khó" dai dẳng.

Xây dựng là một trong sáu lĩnh vực phải kiểm kê khí nhà kính

Xây dựng là một trong sáu lĩnh vực phải kiểm kê khí nhà kính

Ông Ernest Ong, Giám đốc Điều hành Công ty Bao bì AAB Harvest, một trong những doanh nghiệp có tên trong danh sách cơ sở phải kiểm kê khí nhà kính của tỉnh Hưng Yên thừa nhận: "Chúng tôi rất chủ động thực hiện. Tuy nhiên đây là yêu cầu mới, chúng tôi chưa từng thực hiện, nên hiện chúng tôi vẫn đang phải loay hoay để triển khai".

Ông Hoàng Tuấn Anh, Tổng Giám đốc Công ty CP Shinec, thì chỉ rõ: "Hiện nay cơ sở pháp lý thì đã có Luật Bảo vệ môi trường 2020, tuy nhiên các văn bản dưới luật hướng dẫn triển khai vẫn còn rất chung chung, khó triển khai".

Sự thiếu vắng các thông tư, hướng dẫn chi tiết về phương pháp tính toán chuẩn cho từng ngành nghề là nguyên nhân chính khiến nhiều doanh nghiệp không thể nộp báo cáo đúng hạn, vì không có căn cứ áp dụng chính xác.

Không chỉ những vướng mắc về cơ sở pháp lý, nguồn nhân lực cũng là một thách thức lớn với các doanh nghiệp trong quá trình triển khai việc kiểm kê KNK.

Ông Nguyễn Võ Trọng An, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Sàn giao dịch tín chỉ carbon ASEAN, nhấn mạnh: "Chúng ta đang rất thiếu nguồn nhân lực thành thạo lĩnh vực này.Thiếu hụt chuyên gia dẫn đến chi phí thuê tư vấn/thẩm định cao, tạo ra gánh nặng tài chính đáng kể, đặc biệt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ - vốn chiếm đa số trong danh sách phải kiểm kê".

Áp lực từ thị trường toàn cầu: Không kiểm kê sẽ bị loại

Kiểm kê KNK được chia thành ba phạm vi phát thải chính: Phạm vi I (phát thải trực tiếp từ các nguồn sở hữu hoặc kiểm soát), Phạm vi II (phát thải gián tiếp từ năng lượng mua), và Phạm vi III (phát thải gián tiếp từ toàn bộ chuỗi giá trị, bao gồm cả nhà cung cấp và khách hàng). Trong đó, Phạm vi III chính là nút thắt lớn nhất, khiến dữ liệu chuỗi cung ứng bị đứt gãy và các báo cáo khó đạt được tính đầy đủ, chính xác theo tiêu chuẩn quốc tế.

Kiểm kê KNK không chỉ là tuân thủ pháp luật trong nước mà còn là vấn đề sống còn trên thương trường quốc tế, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu.

Trước áp lực phải "xanh hóa" của thị trường toàn cầu, việc có được báo cáo kiểm kê KNK trở thành "giấy thông hành" bắt buộc để hàng hóa Việt Nam có thể xuất khẩu và tham gia vào chuỗi cung ứng giá trị cao. Hai cơ chế đang tạo áp lực lớn nhất là:

CBAM (Cơ chế điều chỉnh carbon xuyên biên giới) của EU: Áp dụng từ đầu năm 2024, CBAM yêu cầu các nhà nhập khẩu sản phẩm như thép, xi măng, phân bón... phải báo cáo chi tiết lượng khí thải carbon tích hợp trong sản phẩm. Không có báo cáo kiểm kê KNK đạt chuẩn quốc tế, sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu của CBAM, dẫn đến việc bị đánh thuế carbon hoặc mất hoàn toàn khả năng cạnh tranh tại thị trường EU.

Thị trường Carbon: Kết quả kiểm kê KNK là căn cứ duy nhất để Nhà nước phân bổ hạn ngạch carbon khi thị trường này vận hành chính thức từ năm 2028. Doanh nghiệp nào chủ động kiểm kê, giảm phát thải sẽ có lợi thế được giao dịch tín chỉ carbon.

Kiểm kê KNK là bước đi không thể lùi, là trách nhiệm chung của mỗi doanh nghiệp đối với mục tiêu Net Zero quốc gia. Việc chậm trễ báo cáo sau thời hạn 31/3/2025 càng làm tăng áp lực tuân thủ và rủi ro bị loại khỏi thị trường.

Cần làm rõ trách nhiệm thu thập dữ liệu trong Phạm vi III để gỡ nút thắt cho doanh nghiệp

Cần làm rõ trách nhiệm thu thập dữ liệu trong Phạm vi III để gỡ nút thắt cho doanh nghiệp

Do đó các doanh nghiệp kiến nghị, các cơ quan chức năng cần khẩn trương hoàn thiện hành lang pháp lý, đặc biệt là các Thông tư dưới luật và làm rõ trách nhiệm thu thập dữ liệu trong Phạm vi III để gỡ nút thắt cho doanh nghiệp và đảm bảo tính hiệu lực của Luật Bảo vệ môi trường 2020.

Vấn đề nan giải này cần sự vào cuộc đồng bộ. Do đó, hy vọng rằng khi xem xét kết quả thực hiện Luật Bảo vệ môi trường 2020, các Đại biểu Quốc hội sẽ quan tâm đánh giá các rào cản pháp lý và thực tiễn của yêu cầu Kiểm kê KNK. Sự định hướng từ cơ quan lập pháp sẽ là động lực quan trọng để các Bộ, ngành và doanh nghiệp cùng tháo gỡ các vướng mắc dưới luật, qua đó đảm bảo tính hiệu lực của Chương Giảm phát thải và thúc đẩy lộ trình Net Zero quốc gia.

Kim Thanh

Nguồn Phụ Nữ VN: https://phunuvietnam.vn/can-thao-go-vuong-mac-cho-doanh-nghiep-thuc-hien-kiem-ke-khi-nha-kinh-20251027015546051.htm