Cảnh báo đỏ với chây ỳ nợ xấu; Doanh nghiệp sắp được phép nhập khẩu vàng trở lạiTín dụng mua nhà hồi phục khi lãi suất cho vay giảm

Dự thảo sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP cho phép doanh nghiệp nhập khẩu vàng trở lại; Cảnh báo đỏ với nợ xấu; Cầu ngoại tệ gia tăng gây áp lực cho tỷ giá, tín dụng chảy vào đâu... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội thông qua vào tuần tới sẽ là tiếng chuông cảnh báo với các con nợ chây ỳ, giúp ngành ngân hàng sớm đưa 1 triệu tỷ đồng 'vốn chết' quay lại nền kinh tế.Con nợ không còn cơ hội trốn tránh trả nợ ngân hàngKhông chỉ luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo, dự thảo mới nhất của Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cũng bãi bỏ điều kiện thu giữ: 'Tài sản đảm bảo không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa án có thẩm quyền'.Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo, nhưng phải là tài sản không tranh chấp. Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng, quy định này khiến nhiều khách hàng cố tình phối hợp với bên thứ ba tạo ra tranh chấp và đưa sự việc ra giải quyết tại tòa án như một hình thức để tránh bị thu giữ tài sản đảm bảo. Vì vậy, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) bãi bỏ điều kiện thu giữ trên là phù hợp.'Vay thì phải trả, vay thì phải có tài sản đảm bảo và một khi đã có hợp đồng thỏa thuận về tài sản đảm bảo, thì nếu khách hàng không trả được nợ, ngân hàng có quyền thu hồi tài sản để phát mãi là hợp lý', đại biểu Hòa bình luận.Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, hiện quy mô nợ xấu toàn hệ thống đã lên tới trên 1 triệu tỷ đồng. Từ khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực, quyền thu giữ tài sản đảm bảo không được luật hóa, việc thu hồi nợ của các ngân hàng vô cùng khó khăn, do nhiều khách hàng cố tình trốn tránh trả nợ, không chịu bàn giao tài sản cho ngân hàng xử lý.Ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kỳ vọng, sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng theo hướng luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 không chỉ tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc thu hồi nợ, mà l

Để được sản xuất vàng miếng, doanh nghiệp, ngân hàng phải có vốn điều lệ tối thiểu bao nhiêu?

Doanh nghiệp muốn được cấp phép sản xuất vàng miếng phải có vốn điều lệ tối thiểu 1.000 tỷ đồng, ngân hàng là 50.000 tỷ đồng. Người dân mua/bán vàng từ 20 triệu đồng trở lên phải thanh toán qua tài khoản.

Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến dự thảo sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ bỏ cơ chế độc quyền sản xuất vàng miếng, thay vào đó cho phép doanh nghiệp, tổ chức tín dụng được tham gia lĩnh vực này.

Điều kiện để doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng là: có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng; Có vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên; Không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng nhưng đã thực hiện xong các biện pháp khắc phục hậu quả, các kiến nghị tại Kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có); Có quy trình nội bộ quy định về sản xuất vàng miếng.

Tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng; Có vốn điều lệ từ 50.000 tỷ đồng trở lên; Không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng nhưng đã thực hiện xong các biện pháp khắc phục hậu quả, các kiến nghị tại Kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có); Có quy trình nội bộ quy định về sản xuất vàng miếng.

Các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp sản xuất vàng miếng chỉ được phép sản xuất loại vàng miếng quy định tại Nghị định này. Đồng thời, phải công bố tiêu chuẩn áp dụng, khối lượng, hàm lượng của sản phẩm theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn khối lượng, hàm lượng sản phẩm đã sản xuất đúng với tiêu chuẩn khối lượng, hàm lượng đã công bố. Phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về sản phẩm vàng miếng do mình sản xuất, bảo hành sản phẩm vàng miếng cho khách hàng theo quy định pháp luật.

Đơn vị nhập khẩu vàng phải xây dựng hệ thống thông tin đảm bảo lưu trữ đầy đủ, chính xác dữ liệu vàng miếng sản xuất; kết nối cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Chiểu theo quy định trên, trên thị trường chỉ có một số đơn vị đáp ứng điều kiện sản xuất vàng miếng là: PNJ, DOJI, SJC, nhóm ngân hàng big 4 (BIDV, Vietcombank, VietinBank, Agribank) và VPBank, Techcombank, MB.

Dự thảo Nghị định quy định: “Căn cứ mục tiêu chính sách tiền tệ và cung cầu vàng trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng cho doanh nghiệp, tổ chức tín dụng quy định tại Điều 11a Nghị định này; nhập khẩu vàng nguyên liệu cho doanh nghiệp, tổ chức tín dụng quy định tại Điều 11a Nghị định này.”

Các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vàng chỉ được phép nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu của nhà sản xuất vàng được chứng nhận bởi Hiệp hội Thị trường vàng London (LBMA).

Ngoài ra, phải công bố tiêu chuẩn áp dụng, khối lượng, hàm lượng của vàng miếng, vàng nguyên liệu nhập khẩu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn khối lượng, hàm lượng sản phẩm đã nhập khẩu đúng với tiêu chuẩn khối lượng, hàm lượng đã công bố.

Các đơn vị nhập khẩu vàng cũng bắt buộc phải xây dựng và báo cáo Ngân hàng Nhà nước quy định nội bộ về xuất khẩu, nhập khẩu, biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng. Xây dựng quy định nội bộ về việc bán vàng nguyên liệu đảm bảo công khai, minh bạch; công bố công khai thông tin về việc bán vàng nguyên liệu, quyền và nghĩa vụ của khách hàng.

Vàng miếng, vàng nguyên liệu nhập khẩu được sử dụng cho các mục đích sau: Sản xuất vàng miếng; Sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; Bán cho doanh nghiệp, tổ chức tín dụng được cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng; Bán cho doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

Doanh nghiệp, ngân hàng phải xây dựng hệ thống thông tin để đảm bảo lưu trữ đầy đủ, chính xác dữ liệu về xuất khẩu, nhập khẩu, giao dịch mua bán vàng nguyên liệu; kết nối cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Cũng theo dự thảo, việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Quy định này nhằm đảm bảo yêu cầu về xác thực thông tin khách hàng, công khai, minh bạch.

Nhiều thay đổi tại Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi): Cảnh báo “đỏ” với con nợ chây ỳ

Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội thông qua vào tuần tới sẽ là tiếng chuông cảnh báo với các con nợ chây ỳ, giúp ngành ngân hàng sớm đưa 1 triệu tỷ đồng “vốn chết” quay lại nền kinh tế.

Con nợ không còn cơ hội trốn tránh trả nợ ngân hàng

Không chỉ luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo, dự thảo mới nhất của Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cũng bãi bỏ điều kiện thu giữ: “Tài sản đảm bảo không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa án có thẩm quyền”.

Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo, nhưng phải là tài sản không tranh chấp. Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng, quy định này khiến nhiều khách hàng cố tình phối hợp với bên thứ ba tạo ra tranh chấp và đưa sự việc ra giải quyết tại tòa án như một hình thức để tránh bị thu giữ tài sản đảm bảo. Vì vậy, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) bãi bỏ điều kiện thu giữ trên là phù hợp.

“Vay thì phải trả, vay thì phải có tài sản đảm bảo và một khi đã có hợp đồng thỏa thuận về tài sản đảm bảo, thì nếu khách hàng không trả được nợ, ngân hàng có quyền thu hồi tài sản để phát mãi là hợp lý”, đại biểu Hòa bình luận.

Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, hiện quy mô nợ xấu toàn hệ thống đã lên tới trên 1 triệu tỷ đồng. Từ khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực, quyền thu giữ tài sản đảm bảo không được luật hóa, việc thu hồi nợ của các ngân hàng vô cùng khó khăn, do nhiều khách hàng cố tình trốn tránh trả nợ, không chịu bàn giao tài sản cho ngân hàng xử lý.

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kỳ vọng, sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng theo hướng luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 không chỉ tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc thu hồi nợ, mà là tiếng chuông cảnh tỉnh, buộc người đi vay phải có ý thức và trách nhiệm trả nợ, xóa bỏ tư duy tìm mọi cách không trả nợ, không bàn giao tài sản.

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI cũng cho rằng, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) nếu được ban hành, không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho ngân hàng đẩy mạnh xử lý nợ xấu, mà còn tác động đến tâm lý của khách hàng. Khi khách hàng biết rằng, nếu cố tình chây ỳ trả nợ, sẽ bị ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo, thì sẽ tự điều chỉnh hành vi, hợp tác trả nợ hơn, không cố tình chây ỳ trả nợ.

Hiện “cục máu đông” nợ xấu đã phình to lên tới trên 1 triệu tỷ đồng - một con số rất lớn, gây lãng phí nguồn lực trong bối cảnh nền kinh tế thiếu vốn hiện nay. Đây không chỉ là vốn của riêng ngân hàng, mà còn là vốn của người dân, của nền kinh tế. Nợ xấu lớn ảnh hưởng đến chất lượng tài sản ngân hàng, là nguyên nhân khiến mặt bằng lãi suất của Việt Nam cao hơn nhiều nước trong khu vực.

Không để ngân hàng chỉ “nhìn” vào tài sản đảm bảo khi cho vay

Dù tán thành việc luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng, song nhiều đại biểu Quốc hội vẫn lo ngại tình trạng lạm quyền thu giữ tài sản đảm bảo. Ngoài ra, có nguy cơ các tổ chức tín dụng sẽ chỉ chú trọng tài sản đảm bảo khi cho vay, từ đó nới lỏng điều kiện cho vay, lơ là thẩm định tín dụng, làm phát sinh nợ xấu...

Giải trình tại phiên họp của Thường vụ Quốc hội đầu tuần này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng khẳng định, thu giữ tài sản bảo đảm không phải là hành động đơn phương, vô điều kiện, mà phải tuân thủ phạm vi, giới hạn, điều kiện thu giữ, tôn trọng quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận của các bên. Quy định về trình tự, thủ tục thu giữ phải công bằng, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên có nghĩa vụ, tổ chức tín dụng và các bên liên quan.

“Để tránh việc lạm quyền, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) quy định, tổ chức tín dụng không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không hạn chế quyền khiếu nại của các bên, đặc biệt là bên bảo đảm và bên đang giữ tài sản bảo đảm. Hoạt động thu giữ tài sản bảo đảm và hoạt động của tổ chức tín dụng nói chung chịu sự quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có Ngân hàng Nhà nước”, Thống đốc khẳng định.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, lãnh đạo một ngân hàng TMCP khẳng định, các ngân hàng không coi quyền thu giữ tài sản đảm bảo là “đặc quyền”, mà chỉ mong quy định này sẽ giúp khách hàng tăng thiện chí trả nợ. “Một khi khách hàng có thiện chí trả nợ, ngân hàng sẵn sàng hỗ trợ, thu giữ tài sản đảm bảo chỉ là phương án cuối cùng. Với chúng tôi, đây được xem là biện pháp tâm lý để khách hàng tăng trách nhiệm trả nợ, là công cụ để ngăn chặn khách hàng bội tín, chứ không phải… cây gậy thần”, vị lãnh đạo này cho biết.

Theo các ngân hàng thương mại, nguồn tiền ngân hàng cho vay là tiền huy động từ người dân, nên phải đảm bảo gốc, lãi cho ngân hàng. Do đó, việc thu hồi nợ không chỉ đảm bảo kết quả kinh doanh của ngân hàng, mà còn để đảm bảo an toàn hệ thống.

Dự kiến, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) sẽ được Quốc hội biểu quyết thông qua vào tuần sau và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/8/2025.

Tín dụng mua nhà hồi phục khi lãi suất cho vay giảm

Trong bối cảnh thị trường bất động sản dần phục hồi sau giai đoạn trầm lắng, hoạt động cho vay bất động sản tại các ngân hàng thương mại ghi nhận mức tăng trưởng tích cực trong quý I/2025. Dư nợ cho vay mua nhà (cá nhân) của Techcombank quý I/2025 tăng 2% so với cùng kỳ. Còn dư nợ bất động sản của nhóm khách hàng doanh nghiệp (gồm cả trái phiếu doanh nghiệp) tăng 12% so với cùng kỳ, tăng 13% từ đầu năm đến nay.

Techcombank là ngân hàng có dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản lớn nhất, đạt 214.783 tỷ đồng đến cuối quý I/2025, tăng 14,8% so với cuối năm trước. Đáng chú ý, mảng này chiếm tới 33,9% tổng dư nợ của Techcombank. Đây cũng là ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản cao nhất hệ thống, đạt 61% trong quý I/2025; nếu tính cả mảng xây dựng và vật liệu xây dựng thì chiếm tới tới 72% tổng dư nợ.

Tổng giám đốc ACB, ông Từ Tiến Phát cho biết, với gói tín dụng mua nhà lãi suất ưu đãi cho khách hàng trẻ mua ngôi nhà đầu tiên, lãi suất 5,5%/năm trong 3 tháng đầu của ACB, sau chưa đầy 3 tháng, Ngân hàng đã giải ngân cho khoảng 2.000 khách hàng, doanh số 3.000 tỷ đồng.

Ngoài Techcombank, ACB, một số ngân hàng khác cũng có tỷ trọng cho vay bất động sản trên tổng dư nợ cao đến cuối quý I/2025 như SHB (25%), VPBank (25,5%), BVBank (17,5%), KienlongBank (16,2%). Những con số này cho thấy tín hiệu mở rộng hoạt động cho vay bất động sản ở nhóm ngân hàng nhỏ và vừa, trong bối cảnh kỳ vọng thị trường hồi phục.

Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay là 16%, tương đương 2,5 triệu tỷ đồng được bơm ra thị trường. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến giữa tháng 4/2025, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 3,95% so với cuối năm 2024.

Riêng tại TP.HCM, tổng dư nợ tín dụng bất động sản tính đến cuối tháng 4/2025 đạt 1,116 triệu tỷ đồng, tăng 0,34% so với tháng trước đó và tăng 2,85% so với cuối năm 2024. Quy mô tín dụng bất động sản tiếp tục duy trì và chiếm khoảng 28% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn.

Các ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh cho vay mua nhà, cạnh tranh lãi suất. BIDV có gói tín dụng 40.000 tỷ đồng dành cho khách hàng cá nhân dưới 35 tuổi có nhu cầu mua/thuê mua nhà ở trên toàn quốc. Theo đó, BIDV hỗ trợ lãi suất 5,5%/năm trong 3 năm đầu, các năm sau đó có lãi suất bằng lãi suất huy động vốn kỳ hạn 24 tháng + 3%/năm, thời gian cho vay lên đến 40 năm và không phải trả gốc trong 5 năm áp dụng trên số tiền tối đa 5 tỷ đồng/khách hàng. Đối với các Dự án có cam kết dành tối thiểu 30% tổng sản phẩm đầu ra cho người trẻ, chủ đầu tư được BIDV áp dụng mức lãi suất ưu đãi 6%/năm cố định trong 24 tháng và các năm sau đó sẽ thấp hơn mức lãi suất thông thường 1-2%/năm.

Trong khi đó, Agribank ưu đãi lãi suất cho cá nhân dưới 35 tuổi vay mua nhà đến hết năm 2025. Khách hàng có thể dùng chính căn nhà dự định mua làm tài sản bảo đảm, với lãi suất cố định 5,5%/năm trong 3 năm đầu, hạn mức vay lên đến 75% nhu cầu vốn và thời hạn vay tối đa 40 năm. Đặc biệt, khách hàng được miễn trả nợ gốc trong 60 tháng đầu tiên.

Nhiều nhà băng khác như ACB, Vietcombank, VIB, VPBank, HDBank, MB, SHB, LPBank cũng rầm rộ triển khai các gói tín dụng ưu đãi. Đáng chú ý, HDBank đưa ra gói vay mua nhà ở xã hội với thời hạn lên đến 50 năm, giúp người có thu nhập dưới 15 triệu đồng/tháng sở hữu nhà với mức trả góp chỉ từ 200.000 đồng/ngày, hỗ trợ người vay cân đối tài chính hiệu quả. VietBank cho vay lãi suất chỉ từ 3,99%/năm, thời hạn vay tối đa 380 tháng và miễn trả nợ gốc trong 60 tháng đầu. Trong khi đó, BVBank có gói vay ưu đãi, với lãi suất cạnh tranh chỉ từ 5,49%/năm cùng các chính sách linh hoạt dành cho khách hàng trẻ.

So với năm trước, lãi suất vay mua nhà đã giảm đáng kể, nhất là khi các ngân hàng đồng loạt tung ra các gói tín dụng ưu đãi với tổng giá trị hàng chục ngàn tỷ đồng, lãi suất từ 3,88%/năm. Dù các gói vay ưu đãi mang lại nhiều cơ hội, nhưng một số chuyên gia cho rằng, người vay vẫn đối mặt với rủi ro từ lãi suất thả nổi sau thời gian ưu đãi. Các gói vay đều có điều khoản lãi suất sau ưu đãi được tính dựa trên lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng cộng biên độ 3,5 - 5% và sẽ dao động ở mức 11 - 13%/năm. Khoản vay mua nhà thường kéo dài trên 20 năm, lãi suất thả nổi, nên gây áp lực tài chính lớn nếu người vay không tính toán kỹ.

Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc NHNN Chi nhánh khu vực II cho biết, tín dụng bất động sản tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung trên địa bàn (trong 4 tháng đầu năm, tín dụng bất động sản tăng 2,85%, trong khi tín dụng chung trên địa bàn tăng 2,62%). Đồng thời, theo ông Lệnh, tín dụng nhà ở xã hội đã tăng trưởng trở lại trong 2 tháng gần đây. Đến cuối tháng 4/2025, tổng dư nợ tín dụng nhà ở xã hội đạt 2.764 tỷ đồng, tăng 4,84% so với tháng trước đó.

Cầu ngoại tệ trả nợ gia tăng, sóng ngầm tỷ giá chưa dứt

Đồng bạc xanh trên thế giới đã giảm giá hơn 10% tính từ đầu năm, nhưng trong nước, áp lực tỷ giá vẫn không giảm. Chênh lệch lãi suất giữa VND và USD chưa giảm và nhu cầu ngoại tệ trả nợ nước ngoài tăng cao là những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này.

Nhu cầu USD tăng mạnh, giá USD bán ra liên tục sát trần

Chỉ số USD Index tính tới đầu tuần này chỉ còn xoay quanh 99 điểm, giảm hơn 10% so với đầu năm. Mặc dù vậy, trong nước, giá USD bán ra tại các ngân hàng thương mại vẫn tăng 2,6 - 3% so với đầu năm. Tuần qua, tỷ giá trung tâm thậm chí đã thiết lập đỉnh mới, lần đầu tiên vượt 25.000 VND/USD. Trên thị trường, giá USD bán ra tại các ngân hàng thương mại cũng liên tục bám sát trần, cho thấy áp lực với tỷ giá chưa giảm.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế gia trưởng BIDV nhận định, dù giảm giá trên thế giới, song USD vẫn là đồng tiền chính trong thanh toán quốc tế, giữ vững sức mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, nhất là khi các nền kinh tế lớn khác đang tăng trưởng chậm lại. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy rủi ro, bất ổn, USD vẫn được coi là đồng tiền trú ẩn an toàn, nhu cầu găm giữ tài sản với USD gia tăng. Đây là lý do khiến tỷ giá VND/USD tiếp tục tăng, dù USD hạ nhiệt trên thế giới.

Ngoài sức mạnh của USD, một nguyên nhân nữa khiến căng thẳng tỷ giá trong nước không giảm là cầu ngoại tệ trả nợ trong nước đang tăng mạnh.

Từ đầu năm đến cuối tháng 5/2025, Kho bạc Nhà nước đã có 9 đợt chào mua ngoại tệ với tổng quy mô gần 1,6 tỷ USD (mua để trả nợ nước ngoài). Như vậy, lượng chào mua ngoại tệ 5 tháng đầu năm nay của Kho bạc Nhà nước cao hơn cả lượng mua năm 2023 (hơn 1,2 tỷ USD) và bằng 86% lượng mua của cả năm 2024.

Nhiều khả năng, trong nửa cuối năm nay, Kho bạc Nhà nước sẽ tiếp tục mua ngoại tệ để trả nợ Chính phủ. Nếu giai đoạn 2015-2020, Chính phủ tăng cường vay ròng (nợ nước ngoài tăng từ mức 41,5% GDP năm 2015 lên mức 47,9% năm 2020), thì bắt đầu từ năm 2021, Chính phủ tăng cường trả nợ ròng. Nợ nước ngoài đã giảm từ mức đỉnh năm 2020 về mức 31,8% vào cuối năm 2024.

Theo ước tính của các chuyên gia, nếu như giai đoạn 2015-2020, thị trường trong nước mỗi năm có thêm vài tỷ USD ngoại tệ từ nguồn vay nợ nước ngoài của Chính phủ, thì ngược lại, trong 5 năm qua, Chính phủ phải chi 2-3 tỷ USD/năm để trả nợ nước ngoài.

Không chỉ Chính phủ, mà doanh nghiệp tư nhân cũng chuyển từ vay ròng sang trả nợ ròng trong những năm gần đây, do lãi vay nước ngoài cộng biến động tỷ giá còn cao hơn lãi vay trong nước. Điều này khiến áp lực đối với cầu ngoại tệ ngày càng gia tăng. Trong khi đó, cung ngoại tệ cơ bản ổn định.

Ông Trần Ngọc Báu, CEO Wigroup nhận định, giá bán USD liên tục chạm trần, có dấu hiệu “căng” từ tháng 4/2025 đến nay và không loại trừ khả năng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải bán ngoại tệ can thiệp thị trường gần đây. Như vậy, dự trữ ngoại tệ hiện có thể chỉ còn 77 tỷ USD. Trong khi đó, theo khuyến nghị của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), dự trữ ngoại hối phải đạt tối thiểu 3 tháng nhập khẩu trở lên mới đảm bảo an toàn (khoảng 100 tỷ USD). Nói cách khác, dư địa can thiệp thị trường của NHNN không còn nhiều. Đây cũng là lý do NHNN chủ động “nới” tỷ giá ngay từ đầu năm nay.

Theo chuyên gia này, áp lực tỷ giá từ đầu năm đến nay không phải do giao thương, xuất nhập khẩu, mà chủ yếu do nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và doanh nghiệp. Vì vậy, tỷ giá sẽ không tăng đột biến, mà từ từ đi lên.

Lãi suất là bài toán khó

Theo TS. Cấn Văn Lực, tỷ giá năm nay sẽ tăng khoảng 3% và NHNN vẫn có khả năng kiểm soát biến động tỷ giá trong biên độ cho phép, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Chuyên gia này cũng cho rằng, lãi suất trong nước sẽ tiếp tục ổn định ở mức hiện nay, đảm bảo hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo ngành ngân hàng không được tăng lãi suất cho vay.

Dù vậy, nhiều chuyên gia lo ngại, áp lực tỷ giá nếu gia tăng sẽ khiến các ngân hàng khó khăn trong duy trì mặt bằng lãi suất thấp.

Thực tế, tại Việt Nam, áp lực tỷ giá không chỉ đến từ cầu ngoại tệ trả nợ hay giao thương, mà còn do tâm lý găm giữ ngoại tệ. Nhiều năm nay, nhiều người dân luôn coi vàng, USD là tài sản tích trữ.

Thêm vào đó, tình trạng chênh lệch lãi suất giữa VND và USD vẫn tồn tại. Một khi lãi suất VND thấp hơn lãi suất USD (chưa kể mỗi năm VND mất giá 3-4%), các nhà đầu tư nước ngoài có thể rút vốn ra khỏi Việt Nam và chuyển đổi sang USD để đầu tư ở nước ngoài - nơi có lãi suất cao hơn, lại không phải chịu rủi ro tỷ giá.

Trên thị trường liên ngân hàng tuần qua, lãi suất VND cho vay qua đêm giao dịch ở mức 2,8%, trong khi lãi suất USD qua đêm tại Mỹ giao dịch ở mức trên 4%. Chênh lệch âm kích thích các nhà băng mua USD giao ngay, bán kỳ hạn để “ăn” chênh lệch, càng đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng, gây áp lực lên tỷ giá.

Dù chỉ số USD Index giảm, song áp lực với tỷ giá lại đến từ nội tại (nguy cơ dòng tiền dịch chuyển ra, chênh lệch lãi suất, nhu cầu trả nợ nước ngoài tăng…) khiến NHNN khó khăn trong hạ nhiệt tỷ giá, giảm lãi suất. Chưa kể, rủi ro chính sách thuế quan vẫn hiện hữu, khiến xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời gian tới thêm khó đoán.

Bất động sản “tít mù” với tín dụng và trái phiếu

Khó phát hành và chào bán trái phiếu khiến trái phiếu doanh nghiệp bất động sản 5 tháng đầu năm nay đi lùi, buộc phải tăng phụ thuộc vào tín dụng. Trong khi đó, phát hành trái phiếu của ngân hàng tăng gấp 3 lần, một phần để đổ vốn vào bất động sản

Dữ liệu của VIS Rating cho thấy, những tháng đầu năm nay, dù nguồn cung và tỷ lệ hấp thụ của thị trường bất động sản phục hồi, song dòng tiền hoạt động của các doanh nghiệp bất động sản vẫn duy trì ở mức âm, chủ yếu do các chủ đầu tư tăng cường vay nợ để đầu tư Dự án.

Còn ông Bùi Văn Huy, Giám đốc Khối Nghiên cứu đầu tư FIDT cho hay, dòng tiền của doanh nghiệp bất động sản đã được cải thiện, song chỉ với nhóm doanh nghiệp có pháp lý “sạch”, đã bước vào giai đoạn mở bán mới.

Trong 5 tháng đầu năm nay, phát hành trái phiếu doanh nghiệp bất động sản chỉ đạt 25.102 tỷ đồng, giảm 13,6% so với cùng kỳ. Nguồn vốn của doanh nghiệp bất động sản từ đầu năm đến nay vẫn phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng. Theo VIS Rating, dư nợ tín dụng kinh doanh bất động sản quý I/2025 tăng tới 34% so với cùng kỳ năm ngoái.

Báo cáo tài chính quý I/2025 của 12 ngân hàng niêm yết cho thấy, có tới 10/12 ngân hàng được khảo sát ghi nhận dư nợ cho vay bất động sản tăng trưởng so với đầu năm. Trong đó, Techcombank cho vay kinh doanh bất động sản tăng 14,8%, PGBank tăng 34,4%, VIB tăng 24,9%, KienlongBank tăng 20,5%, SHB tăng 11,2%, HDBank tăng 17%, MB tăng 12,2%...

Tín dụng bất động sản tăng nhanh, nhưng chủ yếu rót vào doanh nghiệp, trong khi cho vay cá nhân mua nhà tăng chậm.

Đặc biệt, gói vay nhà ở xã hội từng được kỳ vọng rất lớn (gói tín dụng 145.000 tỷ đồng) lại giải ngân chậm. Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến ngày 30/4/2025, các ngân hàng thương mại mới cam kết cấp tín dụng khoảng 7.800 tỷ đồng cho các dự án nhà ở xã hội với doanh số giải ngân đạt 3.866 tỷ đồng. Trong đó, phần cấp cho chủ đầu tư là 3.281 tỷ đồng và phần cho người mua nhà là 585 tỷ đồng.

Theo lý giải của Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, nguyên nhân khiến gói tín dụng nhà ở xã hội được giải ngân chậm là do thiếu hụt dự án nhà ở xã hội, nhiều dự án không có nhu cầu vay vốn.

Tít mù trái phiếu ngân hàng, bất động sản

Một thực trạng khá phi lý là, doanh nghiệp bất động sản rất khát vốn, nhưng khó huy động trái phiếu, buộc phải quay về tín dụng ngân hàng, thì phát hành trái phiếu của ngân hàng tăng đột biến, với một trong những mục đích là để có nguồn cho vay bất động sản.

Từ đầu năm đến nay, các ngân hàng phát hành gần 81.000 tỷ đồng trái phiếu, tăng gấp 3,3 lần so với cùng kỳ. Trong khi đó, doanh nghiệp bất động sản chỉ phát hành 25.102 tỷ đồng trái phiếu, giảm 13,6% so với cùng kỳ.

Nếu như trước đây, phát hành trái phiếu của ngân hàng và doanh nghiệp bất động sản chiếm tỷ trọng tương đối cân bằng, thì hiện nay, phát hành trái phiếu của ngân hàng chiếm tỷ trọng áp đảo.

Cụ thể, năm 2020, trái phiếu bất động sản chiếm tỷ trọng 33,6% tổng lượng phát hành, trái phiếu ngân hàng chiếm gần 28%; năm 2021, trái phiếu bất động sản chiếm 33%, trái phiếu ngân hàng chiếm tỷ trọng 36%. Tuy nhiên, trong 3 năm qua, trái phiếu bất động sản chỉ còn chiếm 20-22%, trong khi trái phiếu ngân hàng tăng lên 58-65%. Trong 5 tháng đầu năm nay, trái phiếu ngân hàng chiếm 67,1% tổng số phát hành, trong khi trái phiếu bất động sản chỉ chiếm 20,8% lượng phát hành.

Câu hỏi đặt ra là tại sao doanh nghiệp bất động sản vẫn chưa thể huy động vốn qua kênh trái phiếu?

Bà Trịnh Quỳnh Giao, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Quản lý quỹ PVI (PVI AM) cho biết, một trong các vướng mắc là theo một quy định của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực, các ngân hàng thương mại không được tham gia quản lý tài sản đảm bảo cho các gói phát hành trái phiếu. Điều này khiến các quỹ rất khó đầu tư vào trái phiếu.

Theo bà Quỳnh Giao, nếu như trước đây, trái phiếu bất động sản và trái phiếu ngân hàng đều chiếm khoảng 1/3 thị trường và 1/3 còn lại là của doanh nghiệp khác, thì hiện nay, ngân hàng chiếm hơn 70% tỷ trọng phát hành toàn thị trường. Tình trạng ngân hàng “một mình một chợ” trên thị trường trái phiếu là bất cập lớn, làm mất ý nghĩa của kênh huy động vốn trái phiếu với doanh nghiệp.

Mặc dù phát hành trái phiếu bất động sản đang tăng trở lại, song nếu loại trừ nhóm ngành tài chính - ngân hàng, thì thị trường vẫn chưa phục hồi.

Nhìn về phía cung, các điều kiện phát hành trái phiếu siết chặt hơn, khiến doanh nghiệp bất động sản trở nên khó khăn hơn trong phát hành mới. Nhìn về phía cầu, các quy định hiện tại chưa thu hút được các nhà đầu tư tổ chức, đặc biệt là khối doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào trái phiếu.

Theo các chuyên gia, việc khó khăn cả cung lẫn cầu khiến các doanh nghiệp bất động sản cũng đang “sợ” phát hành trái phiếu. Đây là lý do khiến doanh nghiệp bất động sản phụ thuộc hơn vào tín dụng. Trong khi đó, ngân hàng tăng phát hành trái phiếu, dù đích đến cuối cùng vẫn là bất động sản.

Điều kiện để doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng là: có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng; Có vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên; Không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng nhưng đã thực hiện xong các biện pháp khắc phục hậu quả, các kiến nghị tại Kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có); Có quy trình nội bộ quy định về sản xuất vàng miếng.

Tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng; Có vốn điều lệ từ 50.000 tỷ đồng trở lên; Không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng nhưng đã thực hiện xong các biện pháp khắc phục hậu quả, các kiến nghị tại Kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có); Có quy trình nội bộ quy định về sản xuất vàng miếng.

Các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp sản xuất vàng miếng chỉ được phép sản xuất loại vàng miếng quy định tại Nghị định này. Đồng thời, phải công bố tiêu chuẩn áp dụng, khối lượng, hàm lượng của sản phẩm theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn khối lượng, hàm lượng sản phẩm đã sản xuất đúng với tiêu chuẩn khối lượng, hàm lượng đã công bố. Phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về sản phẩm vàng miếng do mình sản xuất, bảo hành sản phẩm vàng miếng cho khách hàng theo quy định pháp luật.

Đơn vị nhập khẩu vàng phải xây dựng hệ thống thông tin đảm bảo lưu trữ đầy đủ, chính xác dữ liệu vàng miếng sản xuất; kết nối cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Chiểu theo quy định trên, trên thị trường chỉ có một số đơn vị đáp ứng điều kiện sản xuất vàng miếng là: PNJ, DOJI, SJC, nhóm ngân hàng big 4 (BIDV, Vietcombank, VietinBank, Agribank) và VPBank, Techcombank, MB.

Dự thảo Nghị định quy định: “Căn cứ mục tiêu chính sách tiền tệ và cung cầu vàng trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước cấp hạn mức hàng năm và Giấy phép từng lần xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng cho doanh nghiệp, tổ chức tín dụng quy định tại Điều 11a Nghị định này; nhập khẩu vàng nguyên liệu cho doanh nghiệp, tổ chức tín dụng quy định tại Điều 11a Nghị định này.”

Các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vàng chỉ được phép nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu của nhà sản xuất vàng được chứng nhận bởi Hiệp hội Thị trường vàng London (LBMA).

Ngoài ra, phải công bố tiêu chuẩn áp dụng, khối lượng, hàm lượng của vàng miếng, vàng nguyên liệu nhập khẩu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn khối lượng, hàm lượng sản phẩm đã nhập khẩu đúng với tiêu chuẩn khối lượng, hàm lượng đã công bố.

Các đơn vị nhập khẩu vàng cũng bắt buộc phải xây dựng và báo cáo Ngân hàng Nhà nước quy định nội bộ về xuất khẩu, nhập khẩu, biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng. Xây dựng quy định nội bộ về việc bán vàng nguyên liệu đảm bảo công khai, minh bạch; công bố công khai thông tin về việc bán vàng nguyên liệu, quyền và nghĩa vụ của khách hàng.

Vàng miếng, vàng nguyên liệu nhập khẩu được sử dụng cho các mục đích sau: Sản xuất vàng miếng; Sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; Bán cho doanh nghiệp, tổ chức tín dụng được cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng; Bán cho doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.

Doanh nghiệp, ngân hàng phải xây dựng hệ thống thông tin để đảm bảo lưu trữ đầy đủ, chính xác dữ liệu về xuất khẩu, nhập khẩu, giao dịch mua bán vàng nguyên liệu; kết nối cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Cũng theo dự thảo, việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Quy định này nhằm đảm bảo yêu cầu về xác thực thông tin khách hàng, công khai, minh bạch.

Nhiều thay đổi tại Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi): Cảnh báo “đỏ” với con nợ chây ỳ

Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội thông qua vào tuần tới sẽ là tiếng chuông cảnh báo với các con nợ chây ỳ, giúp ngành ngân hàng sớm đưa 1 triệu tỷ đồng “vốn chết” quay lại nền kinh tế.

Con nợ không còn cơ hội trốn tránh trả nợ ngân hàng

Không chỉ luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo, dự thảo mới nhất của Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cũng bãi bỏ điều kiện thu giữ: “Tài sản đảm bảo không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa án có thẩm quyền”.

Nghị quyết 42/2017/QH14 cho phép ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo, nhưng phải là tài sản không tranh chấp. Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng, quy định này khiến nhiều khách hàng cố tình phối hợp với bên thứ ba tạo ra tranh chấp và đưa sự việc ra giải quyết tại tòa án như một hình thức để tránh bị thu giữ tài sản đảm bảo. Vì vậy, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) bãi bỏ điều kiện thu giữ trên là phù hợp.

“Vay thì phải trả, vay thì phải có tài sản đảm bảo và một khi đã có hợp đồng thỏa thuận về tài sản đảm bảo, thì nếu khách hàng không trả được nợ, ngân hàng có quyền thu hồi tài sản để phát mãi là hợp lý”, đại biểu Hòa bình luận.

Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, hiện quy mô nợ xấu toàn hệ thống đã lên tới trên 1 triệu tỷ đồng. Từ khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực, quyền thu giữ tài sản đảm bảo không được luật hóa, việc thu hồi nợ của các ngân hàng vô cùng khó khăn, do nhiều khách hàng cố tình trốn tránh trả nợ, không chịu bàn giao tài sản cho ngân hàng xử lý.

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kỳ vọng, sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng theo hướng luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 không chỉ tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc thu hồi nợ, mà là tiếng chuông cảnh tỉnh, buộc người đi vay phải có ý thức và trách nhiệm trả nợ, xóa bỏ tư duy tìm mọi cách không trả nợ, không bàn giao tài sản.

Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI cũng cho rằng, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) nếu được ban hành, không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho ngân hàng đẩy mạnh xử lý nợ xấu, mà còn tác động đến tâm lý của khách hàng. Khi khách hàng biết rằng, nếu cố tình chây ỳ trả nợ, sẽ bị ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo, thì sẽ tự điều chỉnh hành vi, hợp tác trả nợ hơn, không cố tình chây ỳ trả nợ.

Hiện “cục máu đông” nợ xấu đã phình to lên tới trên 1 triệu tỷ đồng - một con số rất lớn, gây lãng phí nguồn lực trong bối cảnh nền kinh tế thiếu vốn hiện nay. Đây không chỉ là vốn của riêng ngân hàng, mà còn là vốn của người dân, của nền kinh tế. Nợ xấu lớn ảnh hưởng đến chất lượng tài sản ngân hàng, là nguyên nhân khiến mặt bằng lãi suất của Việt Nam cao hơn nhiều nước trong khu vực.

Không để ngân hàng chỉ “nhìn” vào tài sản đảm bảo khi cho vay

Dù tán thành việc luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng, song nhiều đại biểu Quốc hội vẫn lo ngại tình trạng lạm quyền thu giữ tài sản đảm bảo. Ngoài ra, có nguy cơ các tổ chức tín dụng sẽ chỉ chú trọng tài sản đảm bảo khi cho vay, từ đó nới lỏng điều kiện cho vay, lơ là thẩm định tín dụng, làm phát sinh nợ xấu...

Giải trình tại phiên họp của Thường vụ Quốc hội đầu tuần này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng khẳng định, thu giữ tài sản bảo đảm không phải là hành động đơn phương, vô điều kiện, mà phải tuân thủ phạm vi, giới hạn, điều kiện thu giữ, tôn trọng quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận của các bên. Quy định về trình tự, thủ tục thu giữ phải công bằng, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên có nghĩa vụ, tổ chức tín dụng và các bên liên quan.

“Để tránh việc lạm quyền, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) quy định, tổ chức tín dụng không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không hạn chế quyền khiếu nại của các bên, đặc biệt là bên bảo đảm và bên đang giữ tài sản bảo đảm. Hoạt động thu giữ tài sản bảo đảm và hoạt động của tổ chức tín dụng nói chung chịu sự quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có Ngân hàng Nhà nước”, Thống đốc khẳng định.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, lãnh đạo một ngân hàng TMCP khẳng định, các ngân hàng không coi quyền thu giữ tài sản đảm bảo là “đặc quyền”, mà chỉ mong quy định này sẽ giúp khách hàng tăng thiện chí trả nợ. “Một khi khách hàng có thiện chí trả nợ, ngân hàng sẵn sàng hỗ trợ, thu giữ tài sản đảm bảo chỉ là phương án cuối cùng. Với chúng tôi, đây được xem là biện pháp tâm lý để khách hàng tăng trách nhiệm trả nợ, là công cụ để ngăn chặn khách hàng bội tín, chứ không phải… cây gậy thần”, vị lãnh đạo này cho biết.

Theo các ngân hàng thương mại, nguồn tiền ngân hàng cho vay là tiền huy động từ người dân, nên phải đảm bảo gốc, lãi cho ngân hàng. Do đó, việc thu hồi nợ không chỉ đảm bảo kết quả kinh doanh của ngân hàng, mà còn để đảm bảo an toàn hệ thống.

Dự kiến, Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) sẽ được Quốc hội biểu quyết thông qua vào tuần sau và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/8/2025.

Tín dụng mua nhà hồi phục khi lãi suất cho vay giảm

Trong bối cảnh thị trường bất động sản dần phục hồi sau giai đoạn trầm lắng, hoạt động cho vay bất động sản tại các ngân hàng thương mại ghi nhận mức tăng trưởng tích cực trong quý I/2025. Dư nợ cho vay mua nhà (cá nhân) của Techcombank quý I/2025 tăng 2% so với cùng kỳ. Còn dư nợ bất động sản của nhóm khách hàng doanh nghiệp (gồm cả trái phiếu doanh nghiệp) tăng 12% so với cùng kỳ, tăng 13% từ đầu năm đến nay.

Techcombank là ngân hàng có dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản lớn nhất, đạt 214.783 tỷ đồng đến cuối quý I/2025, tăng 14,8% so với cuối năm trước. Đáng chú ý, mảng này chiếm tới 33,9% tổng dư nợ của Techcombank. Đây cũng là ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản cao nhất hệ thống, đạt 61% trong quý I/2025; nếu tính cả mảng xây dựng và vật liệu xây dựng thì chiếm tới tới 72% tổng dư nợ.

Tổng giám đốc ACB, ông Từ Tiến Phát cho biết, với gói tín dụng mua nhà lãi suất ưu đãi cho khách hàng trẻ mua ngôi nhà đầu tiên, lãi suất 5,5%/năm trong 3 tháng đầu của ACB, sau chưa đầy 3 tháng, Ngân hàng đã giải ngân cho khoảng 2.000 khách hàng, doanh số 3.000 tỷ đồng.

Ngoài Techcombank, ACB, một số ngân hàng khác cũng có tỷ trọng cho vay bất động sản trên tổng dư nợ cao đến cuối quý I/2025 như SHB (25%), VPBank (25,5%), BVBank (17,5%), KienlongBank (16,2%). Những con số này cho thấy tín hiệu mở rộng hoạt động cho vay bất động sản ở nhóm ngân hàng nhỏ và vừa, trong bối cảnh kỳ vọng thị trường hồi phục.

Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay là 16%, tương đương 2,5 triệu tỷ đồng được bơm ra thị trường. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến giữa tháng 4/2025, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 3,95% so với cuối năm 2024.

Riêng tại TP.HCM, tổng dư nợ tín dụng bất động sản tính đến cuối tháng 4/2025 đạt 1,116 triệu tỷ đồng, tăng 0,34% so với tháng trước đó và tăng 2,85% so với cuối năm 2024. Quy mô tín dụng bất động sản tiếp tục duy trì và chiếm khoảng 28% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn.

Các ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh cho vay mua nhà, cạnh tranh lãi suất. BIDV có gói tín dụng 40.000 tỷ đồng dành cho khách hàng cá nhân dưới 35 tuổi có nhu cầu mua/thuê mua nhà ở trên toàn quốc. Theo đó, BIDV hỗ trợ lãi suất 5,5%/năm trong 3 năm đầu, các năm sau đó có lãi suất bằng lãi suất huy động vốn kỳ hạn 24 tháng + 3%/năm, thời gian cho vay lên đến 40 năm và không phải trả gốc trong 5 năm áp dụng trên số tiền tối đa 5 tỷ đồng/khách hàng. Đối với các Dự án có cam kết dành tối thiểu 30% tổng sản phẩm đầu ra cho người trẻ, chủ đầu tư được BIDV áp dụng mức lãi suất ưu đãi 6%/năm cố định trong 24 tháng và các năm sau đó sẽ thấp hơn mức lãi suất thông thường 1-2%/năm.

Trong khi đó, Agribank ưu đãi lãi suất cho cá nhân dưới 35 tuổi vay mua nhà đến hết năm 2025. Khách hàng có thể dùng chính căn nhà dự định mua làm tài sản bảo đảm, với lãi suất cố định 5,5%/năm trong 3 năm đầu, hạn mức vay lên đến 75% nhu cầu vốn và thời hạn vay tối đa 40 năm. Đặc biệt, khách hàng được miễn trả nợ gốc trong 60 tháng đầu tiên.

Nhiều nhà băng khác như ACB, Vietcombank, VIB, VPBank, HDBank, MB, SHB, LPBank cũng rầm rộ triển khai các gói tín dụng ưu đãi. Đáng chú ý, HDBank đưa ra gói vay mua nhà ở xã hội với thời hạn lên đến 50 năm, giúp người có thu nhập dưới 15 triệu đồng/tháng sở hữu nhà với mức trả góp chỉ từ 200.000 đồng/ngày, hỗ trợ người vay cân đối tài chính hiệu quả. VietBank cho vay lãi suất chỉ từ 3,99%/năm, thời hạn vay tối đa 380 tháng và miễn trả nợ gốc trong 60 tháng đầu. Trong khi đó, BVBank có gói vay ưu đãi, với lãi suất cạnh tranh chỉ từ 5,49%/năm cùng các chính sách linh hoạt dành cho khách hàng trẻ.

So với năm trước, lãi suất vay mua nhà đã giảm đáng kể, nhất là khi các ngân hàng đồng loạt tung ra các gói tín dụng ưu đãi với tổng giá trị hàng chục ngàn tỷ đồng, lãi suất từ 3,88%/năm. Dù các gói vay ưu đãi mang lại nhiều cơ hội, nhưng một số chuyên gia cho rằng, người vay vẫn đối mặt với rủi ro từ lãi suất thả nổi sau thời gian ưu đãi. Các gói vay đều có điều khoản lãi suất sau ưu đãi được tính dựa trên lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng cộng biên độ 3,5 - 5% và sẽ dao động ở mức 11 - 13%/năm. Khoản vay mua nhà thường kéo dài trên 20 năm, lãi suất thả nổi, nên gây áp lực tài chính lớn nếu người vay không tính toán kỹ.

Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc NHNN Chi nhánh khu vực II cho biết, tín dụng bất động sản tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung trên địa bàn (trong 4 tháng đầu năm, tín dụng bất động sản tăng 2,85%, trong khi tín dụng chung trên địa bàn tăng 2,62%). Đồng thời, theo ông Lệnh, tín dụng nhà ở xã hội đã tăng trưởng trở lại trong 2 tháng gần đây. Đến cuối tháng 4/2025, tổng dư nợ tín dụng nhà ở xã hội đạt 2.764 tỷ đồng, tăng 4,84% so với tháng trước đó.

Cầu ngoại tệ trả nợ gia tăng, sóng ngầm tỷ giá chưa dứt

Đồng bạc xanh trên thế giới đã giảm giá hơn 10% tính từ đầu năm, nhưng trong nước, áp lực tỷ giá vẫn không giảm. Chênh lệch lãi suất giữa VND và USD chưa giảm và nhu cầu ngoại tệ trả nợ nước ngoài tăng cao là những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này.

Nhu cầu USD tăng mạnh, giá USD bán ra liên tục sát trần

Chỉ số USD Index tính tới đầu tuần này chỉ còn xoay quanh 99 điểm, giảm hơn 10% so với đầu năm. Mặc dù vậy, trong nước, giá USD bán ra tại các ngân hàng thương mại vẫn tăng 2,6 - 3% so với đầu năm. Tuần qua, tỷ giá trung tâm thậm chí đã thiết lập đỉnh mới, lần đầu tiên vượt 25.000 VND/USD. Trên thị trường, giá USD bán ra tại các ngân hàng thương mại cũng liên tục bám sát trần, cho thấy áp lực với tỷ giá chưa giảm.

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế gia trưởng BIDV nhận định, dù giảm giá trên thế giới, song USD vẫn là đồng tiền chính trong thanh toán quốc tế, giữ vững sức mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, nhất là khi các nền kinh tế lớn khác đang tăng trưởng chậm lại. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy rủi ro, bất ổn, USD vẫn được coi là đồng tiền trú ẩn an toàn, nhu cầu găm giữ tài sản với USD gia tăng. Đây là lý do khiến tỷ giá VND/USD tiếp tục tăng, dù USD hạ nhiệt trên thế giới.

Ngoài sức mạnh của USD, một nguyên nhân nữa khiến căng thẳng tỷ giá trong nước không giảm là cầu ngoại tệ trả nợ trong nước đang tăng mạnh.

Từ đầu năm đến cuối tháng 5/2025, Kho bạc Nhà nước đã có 9 đợt chào mua ngoại tệ với tổng quy mô gần 1,6 tỷ USD (mua để trả nợ nước ngoài). Như vậy, lượng chào mua ngoại tệ 5 tháng đầu năm nay của Kho bạc Nhà nước cao hơn cả lượng mua năm 2023 (hơn 1,2 tỷ USD) và bằng 86% lượng mua của cả năm 2024.

Nhiều khả năng, trong nửa cuối năm nay, Kho bạc Nhà nước sẽ tiếp tục mua ngoại tệ để trả nợ Chính phủ. Nếu giai đoạn 2015-2020, Chính phủ tăng cường vay ròng (nợ nước ngoài tăng từ mức 41,5% GDP năm 2015 lên mức 47,9% năm 2020), thì bắt đầu từ năm 2021, Chính phủ tăng cường trả nợ ròng. Nợ nước ngoài đã giảm từ mức đỉnh năm 2020 về mức 31,8% vào cuối năm 2024.

Theo ước tính của các chuyên gia, nếu như giai đoạn 2015-2020, thị trường trong nước mỗi năm có thêm vài tỷ USD ngoại tệ từ nguồn vay nợ nước ngoài của Chính phủ, thì ngược lại, trong 5 năm qua, Chính phủ phải chi 2-3 tỷ USD/năm để trả nợ nước ngoài.

Không chỉ Chính phủ, mà doanh nghiệp tư nhân cũng chuyển từ vay ròng sang trả nợ ròng trong những năm gần đây, do lãi vay nước ngoài cộng biến động tỷ giá còn cao hơn lãi vay trong nước. Điều này khiến áp lực đối với cầu ngoại tệ ngày càng gia tăng. Trong khi đó, cung ngoại tệ cơ bản ổn định.

Ông Trần Ngọc Báu, CEO Wigroup nhận định, giá bán USD liên tục chạm trần, có dấu hiệu “căng” từ tháng 4/2025 đến nay và không loại trừ khả năng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải bán ngoại tệ can thiệp thị trường gần đây. Như vậy, dự trữ ngoại tệ hiện có thể chỉ còn 77 tỷ USD. Trong khi đó, theo khuyến nghị của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), dự trữ ngoại hối phải đạt tối thiểu 3 tháng nhập khẩu trở lên mới đảm bảo an toàn (khoảng 100 tỷ USD). Nói cách khác, dư địa can thiệp thị trường của NHNN không còn nhiều. Đây cũng là lý do NHNN chủ động “nới” tỷ giá ngay từ đầu năm nay.

Theo chuyên gia này, áp lực tỷ giá từ đầu năm đến nay không phải do giao thương, xuất nhập khẩu, mà chủ yếu do nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và doanh nghiệp. Vì vậy, tỷ giá sẽ không tăng đột biến, mà từ từ đi lên.

Lãi suất là bài toán khó

Theo TS. Cấn Văn Lực, tỷ giá năm nay sẽ tăng khoảng 3% và NHNN vẫn có khả năng kiểm soát biến động tỷ giá trong biên độ cho phép, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Chuyên gia này cũng cho rằng, lãi suất trong nước sẽ tiếp tục ổn định ở mức hiện nay, đảm bảo hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo ngành ngân hàng không được tăng lãi suất cho vay.

Dù vậy, nhiều chuyên gia lo ngại, áp lực tỷ giá nếu gia tăng sẽ khiến các ngân hàng khó khăn trong duy trì mặt bằng lãi suất thấp.

Thực tế, tại Việt Nam, áp lực tỷ giá không chỉ đến từ cầu ngoại tệ trả nợ hay giao thương, mà còn do tâm lý găm giữ ngoại tệ. Nhiều năm nay, nhiều người dân luôn coi vàng, USD là tài sản tích trữ.

Thêm vào đó, tình trạng chênh lệch lãi suất giữa VND và USD vẫn tồn tại. Một khi lãi suất VND thấp hơn lãi suất USD (chưa kể mỗi năm VND mất giá 3-4%), các nhà đầu tư nước ngoài có thể rút vốn ra khỏi Việt Nam và chuyển đổi sang USD để đầu tư ở nước ngoài - nơi có lãi suất cao hơn, lại không phải chịu rủi ro tỷ giá.

Trên thị trường liên ngân hàng tuần qua, lãi suất VND cho vay qua đêm giao dịch ở mức 2,8%, trong khi lãi suất USD qua đêm tại Mỹ giao dịch ở mức trên 4%. Chênh lệch âm kích thích các nhà băng mua USD giao ngay, bán kỳ hạn để “ăn” chênh lệch, càng đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng, gây áp lực lên tỷ giá.

Dù chỉ số USD Index giảm, song áp lực với tỷ giá lại đến từ nội tại (nguy cơ dòng tiền dịch chuyển ra, chênh lệch lãi suất, nhu cầu trả nợ nước ngoài tăng…) khiến NHNN khó khăn trong hạ nhiệt tỷ giá, giảm lãi suất. Chưa kể, rủi ro chính sách thuế quan vẫn hiện hữu, khiến xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời gian tới thêm khó đoán.

Bất động sản “tít mù” với tín dụng và trái phiếu

Khó phát hành và chào bán trái phiếu khiến trái phiếu doanh nghiệp bất động sản 5 tháng đầu năm nay đi lùi, buộc phải tăng phụ thuộc vào tín dụng. Trong khi đó, phát hành trái phiếu của ngân hàng tăng gấp 3 lần, một phần để đổ vốn vào bất động sản

Dữ liệu của VIS Rating cho thấy, những tháng đầu năm nay, dù nguồn cung và tỷ lệ hấp thụ của thị trường bất động sản phục hồi, song dòng tiền hoạt động của các doanh nghiệp bất động sản vẫn duy trì ở mức âm, chủ yếu do các chủ đầu tư tăng cường vay nợ để đầu tư Dự án.

Còn ông Bùi Văn Huy, Giám đốc Khối Nghiên cứu đầu tư FIDT cho hay, dòng tiền của doanh nghiệp bất động sản đã được cải thiện, song chỉ với nhóm doanh nghiệp có pháp lý “sạch”, đã bước vào giai đoạn mở bán mới.

Trong 5 tháng đầu năm nay, phát hành trái phiếu doanh nghiệp bất động sản chỉ đạt 25.102 tỷ đồng, giảm 13,6% so với cùng kỳ. Nguồn vốn của doanh nghiệp bất động sản từ đầu năm đến nay vẫn phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng. Theo VIS Rating, dư nợ tín dụng kinh doanh bất động sản quý I/2025 tăng tới 34% so với cùng kỳ năm ngoái.

Báo cáo tài chính quý I/2025 của 12 ngân hàng niêm yết cho thấy, có tới 10/12 ngân hàng được khảo sát ghi nhận dư nợ cho vay bất động sản tăng trưởng so với đầu năm. Trong đó, Techcombank cho vay kinh doanh bất động sản tăng 14,8%, PGBank tăng 34,4%, VIB tăng 24,9%, KienlongBank tăng 20,5%, SHB tăng 11,2%, HDBank tăng 17%, MB tăng 12,2%...

Tín dụng bất động sản tăng nhanh, nhưng chủ yếu rót vào doanh nghiệp, trong khi cho vay cá nhân mua nhà tăng chậm.

Đặc biệt, gói vay nhà ở xã hội từng được kỳ vọng rất lớn (gói tín dụng 145.000 tỷ đồng) lại giải ngân chậm. Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến ngày 30/4/2025, các ngân hàng thương mại mới cam kết cấp tín dụng khoảng 7.800 tỷ đồng cho các dự án nhà ở xã hội với doanh số giải ngân đạt 3.866 tỷ đồng. Trong đó, phần cấp cho chủ đầu tư là 3.281 tỷ đồng và phần cho người mua nhà là 585 tỷ đồng.

Theo lý giải của Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, nguyên nhân khiến gói tín dụng nhà ở xã hội được giải ngân chậm là do thiếu hụt dự án nhà ở xã hội, nhiều dự án không có nhu cầu vay vốn.

Tít mù trái phiếu ngân hàng, bất động sản

Một thực trạng khá phi lý là, doanh nghiệp bất động sản rất khát vốn, nhưng khó huy động trái phiếu, buộc phải quay về tín dụng ngân hàng, thì phát hành trái phiếu của ngân hàng tăng đột biến, với một trong những mục đích là để có nguồn cho vay bất động sản.

Từ đầu năm đến nay, các ngân hàng phát hành gần 81.000 tỷ đồng trái phiếu, tăng gấp 3,3 lần so với cùng kỳ. Trong khi đó, doanh nghiệp bất động sản chỉ phát hành 25.102 tỷ đồng trái phiếu, giảm 13,6% so với cùng kỳ.

Nếu như trước đây, phát hành trái phiếu của ngân hàng và doanh nghiệp bất động sản chiếm tỷ trọng tương đối cân bằng, thì hiện nay, phát hành trái phiếu của ngân hàng chiếm tỷ trọng áp đảo.

Cụ thể, năm 2020, trái phiếu bất động sản chiếm tỷ trọng 33,6% tổng lượng phát hành, trái phiếu ngân hàng chiếm gần 28%; năm 2021, trái phiếu bất động sản chiếm 33%, trái phiếu ngân hàng chiếm tỷ trọng 36%. Tuy nhiên, trong 3 năm qua, trái phiếu bất động sản chỉ còn chiếm 20-22%, trong khi trái phiếu ngân hàng tăng lên 58-65%. Trong 5 tháng đầu năm nay, trái phiếu ngân hàng chiếm 67,1% tổng số phát hành, trong khi trái phiếu bất động sản chỉ chiếm 20,8% lượng phát hành.

Câu hỏi đặt ra là tại sao doanh nghiệp bất động sản vẫn chưa thể huy động vốn qua kênh trái phiếu?

Bà Trịnh Quỳnh Giao, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Quản lý quỹ PVI (PVI AM) cho biết, một trong các vướng mắc là theo một quy định của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực, các ngân hàng thương mại không được tham gia quản lý tài sản đảm bảo cho các gói phát hành trái phiếu. Điều này khiến các quỹ rất khó đầu tư vào trái phiếu.

Theo bà Quỳnh Giao, nếu như trước đây, trái phiếu bất động sản và trái phiếu ngân hàng đều chiếm khoảng 1/3 thị trường và 1/3 còn lại là của doanh nghiệp khác, thì hiện nay, ngân hàng chiếm hơn 70% tỷ trọng phát hành toàn thị trường. Tình trạng ngân hàng “một mình một chợ” trên thị trường trái phiếu là bất cập lớn, làm mất ý nghĩa của kênh huy động vốn trái phiếu với doanh nghiệp.

Mặc dù phát hành trái phiếu bất động sản đang tăng trở lại, song nếu loại trừ nhóm ngành tài chính - ngân hàng, thì thị trường vẫn chưa phục hồi.

Nhìn về phía cung, các điều kiện phát hành trái phiếu siết chặt hơn, khiến doanh nghiệp bất động sản trở nên khó khăn hơn trong phát hành mới. Nhìn về phía cầu, các quy định hiện tại chưa thu hút được các nhà đầu tư tổ chức, đặc biệt là khối doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào trái phiếu.

Theo các chuyên gia, việc khó khăn cả cung lẫn cầu khiến các doanh nghiệp bất động sản cũng đang “sợ” phát hành trái phiếu. Đây là lý do khiến doanh nghiệp bất động sản phụ thuộc hơn vào tín dụng. Trong khi đó, ngân hàng tăng phát hành trái phiếu, dù đích đến cuối cùng vẫn là bất động sản.

Techcombank là ngân hàng có dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản lớn nhất, đạt 214.783 tỷ đồng đến cuối quý I/2025, tăng 14,8% so với cuối năm trước. Đáng chú ý, mảng này chiếm tới 33,9% tổng dư nợ của Techcombank. Đây cũng là ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản cao nhất hệ thống, đạt 61% trong quý I/2025; nếu tính cả mảng xây dựng và vật liệu xây dựng thì chiếm tới tới 72% tổng dư nợ.

Tổng giám đốc ACB, ông Từ Tiến Phát cho biết, với gói tín dụng mua nhà lãi suất ưu đãi cho khách hàng trẻ mua ngôi nhà đầu tiên, lãi suất 5,5%/năm trong 3 tháng đầu của ACB, sau chưa đầy 3 tháng, Ngân hàng đã giải ngân cho khoảng 2.000 khách hàng, doanh số 3.000 tỷ đồng.

Ngoài Techcombank, ACB, một số ngân hàng khác cũng có tỷ trọng cho vay bất động sản trên tổng dư nợ cao đến cuối quý I/2025 như SHB (25%), VPBank (25,5%), BVBank (17,5%), KienlongBank (16,2%). Những con số này cho thấy tín hiệu mở rộng hoạt động cho vay bất động sản ở nhóm ngân hàng nhỏ và vừa, trong bối cảnh kỳ vọng thị trường hồi phục.

Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay là 16%, tương đương 2,5 triệu tỷ đồng được bơm ra thị trường. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến giữa tháng 4/2025, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 3,95% so với cuối năm 2024.

Riêng tại TP.HCM, tổng dư nợ tín dụng bất động sản tính đến cuối tháng 4/2025 đạt 1,116 triệu tỷ đồng, tăng 0,34% so với tháng trước đó và tăng 2,85% so với cuối năm 2024. Quy mô tín dụng bất động sản tiếp tục duy trì và chiếm khoảng 28% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn.

Các ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh cho vay mua nhà, cạnh tranh lãi suất. BIDV có gói tín dụng 40.000 tỷ đồng dành cho khách hàng cá nhân dưới 35 tuổi có nhu cầu mua/thuê mua nhà ở trên toàn quốc. Theo đó, BIDV hỗ trợ lãi suất 5,5%/năm trong 3 năm đầu, các năm sau đó có lãi suất bằng lãi suất huy động vốn kỳ hạn 24 tháng + 3%/năm, thời gian cho vay lên đến 40 năm và không phải trả gốc trong 5 năm áp dụng trên số tiền tối đa 5 tỷ đồng/khách hàng. Đối với các Dự án có cam kết dành tối thiểu 30% tổng sản phẩm đầu ra cho người trẻ, chủ đầu tư được BIDV áp dụng mức lãi suất ưu đãi 6%/năm cố định trong 24 tháng và các năm sau đó sẽ thấp hơn mức lãi suất thông thường 1-2%/năm.

Trong khi đó, Agribank ưu đãi lãi suất cho cá nhân dưới 35 tuổi vay mua nhà đến hết năm 2025. Khách hàng có thể dùng chính căn nhà dự định mua làm tài sản bảo đảm, với lãi suất cố định 5,5%/năm trong 3 năm đầu, hạn mức vay lên đến 75% nhu cầu vốn và thời hạn vay tối đa 40 năm. Đặc biệt, khách hàng được miễn trả nợ gốc trong 60 tháng đầu tiên.

Nhiều nhà băng khác như ACB, Vietcombank, VIB, VPBank, HDBank, MB, SHB, LPBank cũng rầm rộ triển khai các gói tín dụng ưu đãi. Đáng chú ý, HDBank đưa ra gói vay mua nhà ở xã hội với thời hạn lên đến 50 năm, giúp người có thu nhập dưới 15 triệu đồng/tháng sở hữu nhà với mức trả góp chỉ từ 200.000 đồng/ngày, hỗ trợ người vay cân đối tài chính hiệu quả. VietBank cho vay lãi suất chỉ từ 3,99%/năm, thời hạn vay tối đa 380 tháng và miễn trả nợ gốc trong 60 tháng đầu. Trong khi đó, BVBank có gói vay ưu đãi, với lãi suất cạnh tranh chỉ từ 5,49%/năm cùng các chính sách linh hoạt dành cho khách hàng trẻ.

So với năm trước, lãi suất vay mua nhà đã giảm đáng kể, nhất là khi các ngân hàng đồng loạt tung ra các gói tín dụng ưu đãi với tổng giá trị hàng chục ngàn tỷ đồng, lãi suất từ 3,88%/năm. Dù các gói vay ưu đãi mang lại nhiều cơ hội, nhưng một số chuyên gia cho rằng, người vay vẫn đối mặt với rủi ro từ lãi suất thả nổi sau thời gian ưu đãi. Các gói vay đều có điều khoản lãi suất sau ưu đãi được tính dựa trên lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng cộng biên độ 3,5 - 5% và sẽ dao động ở mức 11 - 13%/năm. Khoản vay mua nhà thường kéo dài trên 20 năm, lãi suất thả nổi, nên gây áp lực tài chính lớn nếu người vay không tính toán kỹ.

Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc NHNN Chi nhánh khu vực II cho biết, tín dụng bất động sản tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung trên địa bàn (trong 4 tháng đầu năm, tín dụng bất động sản tăng 2,85%, trong khi tín dụng chung trên địa bàn tăng 2,62%). Đồng thời, theo ông Lệnh, tín dụng nhà ở xã hội đã tăng trưởng trở lại trong 2 tháng gần đây. Đến cuối tháng 4/2025, tổng dư nợ tín dụng nhà ở xã hội đạt 2.764 tỷ đồng, tăng 4,84% so với tháng trước đó.

Cầu ngoại tệ trả nợ gia tăng, sóng ngầm tỷ giá chưa dứt

T.L

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/canh-bao-do-voi-chay-y-no-xau-doanh-nghiep-sap-duoc-phep-nhap-khau-vang-tro-lai-d304492.html