Canh thụt - nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực của đồng bào M'nông
Giữa đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ, nơi tiếng chiêng ngân vang thẩm thấu qua muôn ngàn màu sắc của lễ hội, ẩm thực của đồng bào M'nông luôn mang một màu sắc riêng biệt, độc đáo; không cầu kỳ, không nặng về hình thức mà ẩn chứa trong đó sự mộc mạc, tinh túy và hơi thở núi rừng. Trong đó, canh thụt được xem là đặc sản tiêu biểu, phản ánh rõ nét văn hóa lao động, sinh hoạt và triết lý sống hòa hợp với thiên nhiên của cư dân bản địa.

Trong mâm cơm truyền thống của người M’nông không thể thiếu món canh thụt.
Mộc mạc từ nguyên liệu đến cách chế biến
Điểm thú vị nhất của canh thụt nằm ở cách nấu. Canh thụt được chế biến trong ống nứa hoặc ống lồ ô - những vật liệu tự nhiên sẵn có trong rừng hoặc dễ trồng trong rẫy. Nguyên liệu cho món canh thụt đều là những sản vật quen thuộc của núi rừng: cà đắng, lá bép (rau nhíp), đọt mây, ớt, bột gạo cùng thịt, cá tùy mùa, gà thả rông, thịt heo... Tất cả được sơ chế, cắt nhỏ và cho vào ống nứa hoặc lồ ô. Sau đó, miệng ống được bịt bằng lá chuối hoặc lá rừng, đặt lên bếp lửa. Chính trong quá trình nấu, người chế biến liên tục dùng một thanh gậy nhỏ thụt vào trong ống để dằm và trộn nguyên liệu. Đây cũng là nguồn gốc của tên gọi đặc biệt - canh thụt. Công đoạn “thụt canh” đòi hỏi sự khéo léo và kinh nghiệm của người nấu. Ống nứa (lồ ô) phải đủ độ non để thơm mà không bị nứt khi gặp lửa. Người nấu phải điều chỉnh lực và thời gian sao cho nguyên liệu hòa quyện mà vẫn giữ được hương vị tự nhiên của món ăn. Khi ống nứa bắt đầu tỏa ra mùi thơm nồng, đó cũng là lúc món canh đạt độ chín hoàn hảo.
Hương vị đậm đà của đại ngàn
Hương vị món canh thụt là sự hòa quyện của 4 sắc thái đặc trưng: ngọt, đắng, bùi, cay. Vị đắng của cà đắng và đọt mây là thứ vị “kén” người ăn nhưng lại gây nghiện với những ai đã quen. Trong văn hóa Tây Nguyên, vị đắng tượng trưng cho thử thách, cho sự kiên cường của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt. Vị ngọt thanh tự nhiên đến từ măng non và thịt, tạo nên cảm giác hài hòa với vị đắng. Bột gạo và lá bép góp phần tạo độ sánh và vị bùi nhẹ, càng làm món canh trở nên tròn vị. Điều đặc biệt hơn cả nằm ở hương tre nứa cháy lan vào nguyên liệu. Đó là thứ hương thơm đặc trưng mà chỉ những món được nấu bằng ống nứa mới có. Sau khi đã chín, người nấu cho món canh ra tô, làn khói thơm bốc lên mang theo mùi nứa, mùi vị tinh túy của nguyên liệu núi rừng, khiến người thưởng thức như được hòa mình vào không gian đại ngàn.
Canh thụt không chỉ là món ăn hàng ngày mà còn xuất hiện trong nhiều lễ hội của người M’nông: Lễ Mừng lúa mới, Lễ Cúng bến nước, Lễ Cầu sức khỏe... Những ống canh thụt đặt bên ché rượu cần, bên bếp lửa nhà sàn, tạo nên một bức tranh ấm áp về tình đoàn kết và sinh hoạt cộng đồng.
Món ngon độc đáo cho du khách
Ngày nay, canh thụt trở thành món ăn gây tò mò và hấp dẫn với nhiều du khách khi đến các vùng sinh sống của người M’nông ở phía Tây tỉnh Lâm Đồng. Anh Kỷ Phúc Hậu - một du khách từ tỉnh Vĩnh Long cho biết: “Một lần đi qua Gia Nghĩa, tôi có dịp thưởng thức món canh thụt. Từ đó tôi ghiền món ăn này. Vì nó có nhiều hương vị lạ và ngon miệng, kích thích vị giác. Tôi thích vị của lá bép, đọt mây đắng, vừa bùi bùi mà đắng đắng nhưng ngọt hậu. Trong tiết trời mùa đông mưa lạnh, thêm dư vị cay nồng của ớt đồng bào nữa thì càng cảm thấy ấm áp, tốt cho sức khỏe. Từ đó, mỗi lần có dịp qua địa phương này là tôi lại ghé thưởng thức món canh thụt - một món ăn đậm đà hương vị núi rừng không thể nào quên”.
Canh thụt không chỉ là món ăn mang hương vị núi rừng mà còn là câu chuyện văn hóa sống động của đồng bào M’nông. Nhiều nhà hàng đặc sản Tây Nguyên đã đưa canh thụt vào thực đơn nhưng hương vị nguyên bản, đậm chất núi rừng nhất vẫn là khi thưởng thức ở chính bon làng, bên bếp lửa nhà sàn trong không gian ấm áp của người M’nông.












