Cấp 'quota' nhập khẩu vàng chỉ nên là giải pháp tình thế
TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng cho rằng, cơ chế hạn ngạch (quota) nhập khẩu vàng có thể chấp nhận được trong giai đoạn đầu, song về lâu dài cần bỏ cơ chế này, nếu không thị trường sẽ tiếp tục méo mó.
Theo ông Vũ Hùng Sơn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Vàng bạc đá quý Bảo Tín Mạnh Hải, Tổng Thư ký Hiệp hội Kinh doanh vàng, thị trường vàng Việt Nam đang trải qua giai đoạn nhiều biến động khi cả người dân lẫn doanh nghiệp đều đối mặt với những trở ngại chưa từng có. Tình trạng xếp hàng mua vàng chỉ phản ánh phần nổi của khó khăn, còn phía sau là sự thiếu hụt kéo dài của nguồn cung nguyên liệu chính thức.
"Ngân hàng Nhà nước đang nghiên cứu cấp quota nhập khẩu vàng cho năm 2026 cũng như chuẩn bị cấp phép cho một số doanh nghiệp, ngân hàng được nhập khẩu vàng. Hy vọng năm 2026, tình trạng khan hiếm nguyên liệu của thị trường sẽ được giải quyết bớt", ông Sơn thông tin tại Diễn đàn “Thị trường vàng Việt Nam: Thuận lợi và thách thức trong giai đoạn mới” do Báo Kinh tế và Đô thị phối hợp với Hội Mỹ nghệ kim hoàn Hà Nội tổ chức chiều ngày 24/11.

TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng.
Liên quan tới câu chuyện nhập khẩu vàng, TS. Lê Xuân Nghĩa đề nghị cần thay đổi tư duy, cách nhìn về vàng. Theo vị chuyên gia này, lâu nay, chúng ta vẫn coi vàng là mặt hàng nhạy cảm, song thực chất vàng không "ghê gớm" và phức tạp đến thế.
Cũng theo TS. Lê Xuân Nghĩa, mỗi năm, Việt Nam chi khoảng 11 tỷ USD để nhập khẩu xì gà, rượu ngoại và mỹ phẩm, trong khi nếu nhập khẩu khoảng 50 tấn vàng (ước lượng vàng nhập lậu vào Việt Nam mỗi năm chỉ 30 - 50 tấn) thì chỉ mất 5 tỷ USD. Việc chi ra số ngoại tệ này để nhập khẩu vàng sẽ không tác động lớn đến nền kinh tế.
Việc cấm nhập khẩu vàng dẫn tới tình trạng vàng lậu gia tăng (theo Hội đồng Vàng thế giới, khoảng 75% vàng tích trữ tại Việt Nam có nguồn gốc là vàng nhập lậu). Điều này cho thấy chính hạn chế trong cơ chế nhập khẩu chính thức đã đẩy thị trường vào tình trạng méo mó, chênh lệch giá và phát sinh buôn lậu.
Trong khi đó, việc người dân giữ vàng như một hình thức tiết kiệm, phòng thân là hoàn toàn chính đáng. Từ những lập luận này, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, việc người dân giữ vàng là tốt, vàng trong dân cũng là một dạng dự trữ quốc gia, không nên coi người dân tích trữ vàng là đầu cơ, tiêu cực.
Nhìn dài hạn, chuyên gia này cho rằng, vàng vẫn trong xu hướng tăng giá. Nguyên nhân là tổng lượng vàng khai thác hàng năm trên thế giới chỉ tăng từ 1,2% - 1,5%, trong khi cung tiền toàn cầu tăng 3,5% - 4,5%.
“Tiền tăng nhanh hơn vàng thì vàng phải tăng giá, đó là quy luật. Người dân hiểu điều đó nên giữ vàng là chuyện bình thường, không nên trách người dân hay kêu gọi người dân không tích trữ vàng, mà phải đặt ra câu hỏi tại sao người dân Việt Nam phải mua vàng đắt hơn thế giới 20%”, vị chuyên gia đặt câu hỏi.
Nhận định áp lực từ nhập khẩu vàng là không quá lớn, TS. Nghĩa cho rằng, trong giai đoạn đầu, có thể chấp nhận việc thận trọng trong cấp quota song về lâu dài, Ngân hàng Nhà nước nên sớm mở rộng quyền nhập, xuất khẩu cho nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện; lập sàn vàng vật chất; công khai giá theo chuẩn thế giới; kiểm soát buôn lậu bằng nghiệp vụ, chứ không phải bằng siết cung.
“Quota chỉ là giải pháp tình thế. Mục tiêu cuối cùng phải là thị trường minh bạch, công bằng, không để người dân nghèo phải mua vàng với giá đắt hơn người nước ngoài”, TS. Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh.
Phát biểu tại Diễn đàn, nhiều doanh nghiệp kinh doanh vàng cho biết không chỉ khó khăn vì khan hiếm nguyên liệu, mà còn liên tục bị thanh, kiểm tra khiến hoạt động kinh doanh khó chồng khó.
Dù vậy, theo đại diện Quản lý thị trường Hà Nội, thực tiễn thị trường cho thấy, sự vận động của thị trường vàng hiện nay đã vượt ra khỏi phạm vi một mặt hàng thông thường. Vàng trở thành một yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh tài chính - tiền tệ quốc gia, đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ, bài bản và kịp thời của các cơ quan quản lý.
Tại Hà Nội, cơ quan quản lý thị trường ghi nhận nhiều thách thức nổi bật trong hoạt động kinh doanh mặt hàng vàng, từ những hành vi gian lận tuổi vàng, kinh doanh vàng không hóa đơn chứng từ, đến tình trạng “niêm yết một giá, bán một giá”, hay lợi dụng chênh lệch giá để đầu cơ, thổi giá. Những hành vi này không chỉ gây thiệt hại cho người tiêu dùng, mà còn có nguy cơ cao gây ra những rủi ro lớn đối với nền kinh tế.












