Chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh và những lời nhắn gửi cuối cùng trong giờ phút lâm chung (bài cuối)
Đám tang cụ Phan Châu Trinh và sức mạnh tiền đề cho các cuộc cách mạng sau này
Vào tháng 6/1919, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và một số người Việt Nam yêu nước khác ở Paris quyết định thảo bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi tới Hội nghị các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất họp tại Versailles và thống nhất để anh Nguyễn thay mặt tất cả mọi người đứng tên trong bản "Yêu sách" với danh xưng Nguyễn Ái Quốc. Ngày 18/6/1919, qua báo LHumanité và Journal du peuple, tên tuổi Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện trên chính trường Paris với tư cách "đại diện cho nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp". Chứng tỏ hai cụ Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường đã có một sự xem trọng và đặt niềm tin đặc biệt vào người thanh niên trẻ yêu nước Nguyễn Tất Thành.
Tuy nhiên, theo báo cáo của Sở mật thám (Sureté) Paris, gửi Bộ thuộc địa Pháp: Vào ngày 07/11/1921, tại nhà số 6, phố Vilas des Gobelin, Paris, Nguyễn Ái Quốc tranh luận rất gay gắt với các nhà yêu nước Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường lúc ấy cũng đang ở Pháp, xoay quanh vấn đề thuộc địa ở Đông Dương. Trong số báo cáo mô tả không khí của các buổi họp, có một đoạn báo cáo của mật thám Pháp được trích dẫn rộng rãi ghi lại rằng: "Tình báo cho biết tại nhà số 6 Villa des Gobelins bọn họ (gốc An Nam) có khi tụ họp tới một giờ sáng, cãi nhau lớn tiếng đến nỗi láng giềng phải than phiền". Cũng theo báo cáo của Sở mật thám Pháp thì Nguyễn Ái Quốc lập luận rằng Cách mạng muốn thành công thì phải dựa vào dân chúng, đoàn kết các dân tộc thuộc địa và cần vũ trang Cách mạng để đấu tranh giành độc lập. Còn Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường thì chủ trương hòa bình, ôn hòa, dùng phương pháp cải cách, vận động bằng chính quyền Pháp và không dùng bạo lực Cách mạng.


Hình ảnh lịch sử về tang lễ cụ Phan Châu Trinh năm 1926
Mặc dù có những sự bất đồng nhất định trong tranh luận vào ngày 07/11/1921. Nhưng sau đó, trong khoảng thời gian từ 1922 - 1925, chí sĩ Phan Chu Trinh và nhà Cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã viết cho nhau rất nhiều thư trao đổi. Trong lá thư viết ngày 28/02/1922, từ Marseille gửi cho Nguyễn Ái Quốc ở Paris để tranh luận về phương pháp cứu nước, cụ Phan đã viết: "Mãi tới bây giờ, anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi. Còn tôi thời lại không thích cái phương pháp "ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội" (nằm ở nước ngoài chiêu hiền nạp sĩ, đợi thời cơ về nước hoạt động) của anh. Thực tình, từ trước tới nay tôi chẳng bao giờ khinh thị anh mà ngược lại, tôi còn cảm phục anh nữa là khác".
Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) rất coi trọng và kính nể các ông Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Tham, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, nhưng không đi theo con đường của các vị tiền bối đã đi. Người thanh niên Nguyễn Tất Thành không chọn theo phái Đông Du sang Nhật Bản, mà sang các nước phương Tây, nơi có tự do, dân chủ và khoa học, kỹ thuật hiện đại. Nhưng khi tới phương Tây, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã tiếp thu nhiều cái mới, trên cơ sở đó để định ra đường lối mới cho Cách mạng Việt Nam, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Đám tang của cụ Phan Châu Trinh là thước đo của tinh thần dân tộc Việt lúc bấy giờ
Chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh mất ngày 24/3/1926. Sau ngày ông mất, một đám tang lớn đã diễn ra, được ví như một "Big Bang của lòng yêu nước". Đây đúng là một đám tang vĩ đại đến thời điểm lúc bấy giờ, thậm chí nếu so sánh thì sức ảnh hưởng còn lớn hơn rất nhiều của vua Khải Định đã mất trước đó khoảng 5 tháng.
Theo các tài liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (1920 - 2024) thì dân số cả Sài Gòn và Chợ Lớn cộng lại vào thời điểm năm 1926 là vào khoảng 345.000 người. Một con số đáng tin cậy là có khoảng hơn 100.000 người đã đi theo linh cữu Cụ Phan Châu Trinh, kéo dài trên 2 cây số, tức là có hơn một phần tư người Sài Gòn - Chợ Lớn đã long trọng tiễn đưa nhà ái quốc yêu quý của mình đến nơi an nghỉ cuối cùng. Rõ ràng không chỉ là một đám tang, mà là một cuộc biểu dương lực lượng chính trị của quần chúng yêu nước, báo hiệu những chuyển động xã hội sẽ không còn gì ngăn cản được. Tang lễ không chỉ là một nghi thức tiễn biệt mà đã biến thành một phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp, thể hiện ý chí quật cường chống lại thực dân Pháp. Đây là lần đầu tiên một sự kiện tang lễ trở thành vấn đề chính trị - xã hội - văn hóa to lớn trên cả nước. Sự kiện này đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, đoàn kết và ý thức đấu tranh của các tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là học sinh, sinh viên và giới trí thức. Nó có tác động thức tỉnh to lớn đến quần chúng, thúc đẩy phong trào dân tộc dân chủ phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm sau đó.
Đám tang cụ Phan Châu Trinh vào năm 1926 là một sự kiện lịch sử quan trọng, tác động sâu sắc đến tâm thức của nhiều người, trong đó có Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh). Sự kiện này đã khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh, giúp nhiều người giác ngộ Cách mạng và hiểu rõ hơn, sáng hơn về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc trong tương lai.
Nguyễn Ái Quốc đã viết về đám tang Phan Châu Trinh trong bài báo với tựa đề "Đông Dương", đăng trên tạp chí La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản) số 28, tháng 10 năm 1926: "Tang lễ cụ Phan Châu Trinh, nhà chí sĩ Cách mạng An Nam, mất ngày 24 tháng 3 vừa qua, đã biến thành một cuộc biểu tình khổng lồ, chưa từng thấy ở xứ thuộc địa này... Sự kiện này đã làm "hoán cải quốc dân hồn" (thay đổi hồn quốc dân). Người An Nam chưa hề được chứng kiến một sự việc to như vậy bao giờ trong lịch sử của họ, trong những ngày lễ lớn nhất của tôn giáo hay trong những ngày kỷ niệm vĩ đại nhất của hoàng gia. Gần 30.000 người đi theo quan tài đến nơi an táng. Bốn vạn người khác đứng chật các vỉa hè và đường phố... Đó là một biểu hiện tuyệt vời của tình đoàn kết dân tộc...".

Nhà số 6, phố Vilas des Gobelin (Paris) - nơi gặp gỡ của Nguyễn Ái Quốc với các nhà yêu nước Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường
Đám tang Phan Châu Trinh là một sự kiện lịch sử độc đáo, vượt ra ngoài khuôn khổ một nghi lễ thông thường, trở thành một "quốc tang trong lòng dân", đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng sự kiện này để làm nổi bật tinh thần dân tộc mãnh liệt và tiềm năng Cách mạng to lớn của Nhân dân Việt Nam, gửi gắm thông điệp đến dư luận Pháp và bạn bè quốc tế về ý chí đấu tranh giành độc lập của dân tộc thuộc địa.
Người viết sử phải biết tôn trọng lịch sử, hay "tôn trọng sự thật khách quan", là một nguyên tắc cơ bản và then chốt của một nhà nghiên cứu về lịch sử. Điều này đòi hỏi những người biên soạn lịch sử phải tuân thủ các nguyên tắc: Dựa trên bằng chứng xác thực, mọi luận điểm, sự kiện hay nhân vật lịch sử đều phải được xây dựng dựa trên các nguồn sử liệu đáng tin cậy (tài liệu, hiện vật, di tích...). Phải khách quan và công tâm, người viết sử cần gạt bỏ những định kiến cá nhân, cảm xúc chủ quan, hay áp lực chính trị để phản ánh sự kiện một cách chân thực nhất. Phải toàn diện và đa chiều bởi lịch sử không chỉ là một chuỗi các sự kiện, mà còn là bối cảnh xã hội, kinh tế, văn hóa phức tạp; việc xem xét vấn đề từ nhiều góc độ giúp tái hiện bức tranh lịch sử đầy đủ và chính xác hơn. Phải trung thực với quá khứ, tôn trọng lịch sử có nghĩa là không xuyên tạc, bóp méo, thêm thắt hay che giấu sự thật để phục vụ cho một mục đích chính trị hay mục đích nào đó ở hiện tại. Nguyên tắc này không chỉ bảo đảm tính khoa học của lịch sử mà còn giữ gìn giá trị của lịch sử như một bài học quý giá cho các thế hệ mai sau. Và điều này Trần Gia Phụng đã không tuân thủ nên đã cố tình đưa ra nhiều luận điểm gây nhiễu, gây khó hiểu để cố tình "chia tách" chủ nghĩa yêu nước vốn là một điểm chung của hai nhà Cách mạng lớn trở thành hai thái cực để dễ bề lèo lái dư luận. Điều này đã vi phạm đạo đức một cách nghiêm trọng của người viết sử, sẽ vừa có tội với tiền nhân vừa vô tâm với hậu thế.
Qua toàn bộ những nghiên cứu cho thấy, chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh là một nhà Cách mạng đi trước thời đại, nhưng ông chỉ yêu cầu cải cách, không chủ trương đánh đổ thực dân Pháp ở Đông Dương; chỉ yêu cầu xóa bỏ chế độ quan lại, không chủ trương đánh đổ toàn bộ chế độ phong kiến.
Trong quá trình đi tìm con đường cứu nước và Cách mạng cho Nhân dân ta, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc, sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã độc lập suy nghĩ, điều tra, nghiên cứu thời đại, thời cuộc. Vừa học tập lý luận, vừa làm công tác thực tế, từng bước một, Người rút ra những kết luận quan trọng, đề lên thành nguyên lý và lấy những nguyên lý ấy soi sáng cho những hoạt động thực tiễn của mình và chọn cho mình một hướng đi riêng nhưng vẫn rất tôn trọng tiền bối Phan Châu Trinh - người đã giúp đỡ rất nhiều trong suốt thời gian hoạt động Cách mạng ở nước ngoài, cũng như lời khuyên Nguyễn Ái Quốc hãy về nước làm Cách mạng đã được cụ Phan gửi trong thư ngày 18/02/1922 từ Marseille.
Trên đây, tác giả đã trình bày một số vấn đề về quan điểm tư tưởng của Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh để tránh sự hiểu lầm không đúng trong dư luận xã hội do các nhà nghiên cứu sử học mạo danh hoặc đã cố tình "lật sử" vì một mục đích chính trị hay một lý do nào đó khác. Điều này, không những không tôn trọng các giá trị nhân văn của các bậc vĩ nhân, những anh hùng Cách mạng đi trước, mà còn vô tình tách rời, gây đứt gãy dòng chảy yêu nước nồng nàn của những con người nghìn năm mới xuất hiện này.
Vẫn cần thêm nhiều sự phản biện mạnh mẽ hơn nữa để khẳng định lại các giá trị, khẳng định lại hình ảnh của nhân vật lưu mãi tên tuổi, thanh danh của một cuộc đời trọn vẹn vào sử xanh của dân tộc Việt Nam như cụ Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh).












