Chìa khóa mở đường cho công nghiệp văn hóa Việt Nam
Góp ý Văn kiện Đại hội Đảng XIV, chuyên gia nhấn mạnh vai trò chiến lược của công nghiệp văn hóa và đề xuất mô hình hợp tác công - tư để phát triển bền vững ngành này.

Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV xác định rõ: “Phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của Nhân dân”.
Từ kinh nghiệm thực hiện nhiều dự án văn hóa - nghệ thuật lớn, ông Phạm Minh Toàn - CEO của nhiều dự án văn hóa nghệ thuật đề xuất cần có chính sách riêng để phát triển công nghiệp văn hóa như một ngành kinh tế đặc thù.
Trong đó, mô hình hợp tác công - tư (PPP) được xem là “chìa khóa” để kết nối nguồn lực công và tư, tạo cú hích cho sự phát triển bền vững của hệ sinh thái văn hóa sáng tạo, phù hợp với mục tiêu được nêu trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng XIV.
“Thời cơ vàng” cho công nghiệp văn hóa
- Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định đặt mục tiêu: “Phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của Nhân dân”. Là người hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này, ông đánh giá thế nào về định hướng trên?
- Tôi rất ủng hộ và đánh giá cao định hướng này, vì nó thể hiện rõ quyết tâm trong việc coi văn hóa là một trụ cột phát triển, chứ không chỉ là phần “phụ trợ” như trước đây. Trong thực tế, tôi thấy nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của người dân, đặc biệt là giới trẻ, đang tăng rất mạnh.
Qua thực tiễn hoạt động trong lĩnh vực này, tôi thấy tiềm năng của Việt Nam là rất lớn từ điện ảnh, âm nhạc, thời trang, thiết kế cho đến ẩm thực, di sản và nghệ thuật biểu diễn.
Tuy nhiên, để “phát triển mạnh” đúng nghĩa, cần có hệ sinh thái đồng bộ hơn: đầu tư hạ tầng, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp, thúc đẩy đầu tư tư nhân hay hợp tác công tư và ứng dụng công nghệ số để mở rộng thị trường. Khi đó, công nghiệp văn hóa không chỉ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của người dân mà còn trở thành động lực phát triển kinh tế và hình ảnh quốc gia.
Đây cũng là thời điểm để chúng ta nhìn nhận công nghiệp văn hóa như một ngành kinh tế đặc thù, có thể tạo việc làm, thu hút đầu tư, quảng bá hình ảnh đất nước. Tôi tin rằng với sự đồng hành của Nhà nước và sự chủ động của cộng đồng sáng tạo, nội dung mà Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đặt ra là hoàn toàn khả thi và có tính thời đại.
- Từ thực tế triển khai các sự kiện và dự án văn hóa nhiều năm qua, ông nhìn nhận tiềm năng phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt Nam hiện nay ra sao?
Nền công nghiệp văn hóa của chúng ta không chỉ phục vụ người Việt, mà còn có thể xuất khẩu giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Ông Phạm Minh Toàn
- Tôi thấy tiềm năng phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam là rất rõ, thậm chí có thể nói là đang mở ra “thời cơ vàng”. Chúng tôi đã làm việc nhiều năm trong các dự án về điện ảnh, âm nhạc, lễ hội, thời trang, ẩm thực và nhận thấy ở đâu cũng có năng lượng sáng tạo rất mạnh từ giới trẻ, từ doanh nghiệp tư nhân và cả các địa phương. Vấn đề hiện nay không phải là thiếu ý tưởng hay thiếu tài năng, mà là thiếu cơ chế và hạ tầng để các ý tưởng đó phát triển thành sản phẩm, thương hiệu và giá trị kinh tế cụ thể.
Nếu có chính sách khuyến khích đầu tư, liên kết công - tư hiệu quả hơn và đặc biệt là sự đồng hành về cơ chế, đào tạo nhân lực, tôi tin Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một trung tâm sáng tạo mới của khu vực. Nền công nghiệp văn hóa của chúng ta không chỉ phục vụ người Việt, mà còn có thể xuất khẩu giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Ông Phạm Minh Toàn là CEO của nhiều dự án văn hóa - nghệ thuật như VietFest, Tuần Lễ Thiết Kế Việt Nam hay Liên hoan phim quốc tế TP.HCM... Ảnh: NVCC.
Phát triển bền vững công nghiệp văn hóa Việt Nam
- Trong tham luận tại hội thảo gần đây, ông cho rằng “chìa khóa” để phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt Nam là mô hình hợp tác công tư (PPP - public - private partnership). Tại sao ông cho rằng đây là “chìa khóa” để phát triển công nghiệp văn hóa?
- Khi nói mô hình công - tư là “chìa khóa”, tôi muốn nhấn mạnh rằng phát triển công nghiệp văn hóa không thể chỉ dựa vào ngân sách nhà nước hay nỗ lực riêng lẻ của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, các dự án văn hóa thành công đều là kết quả của sự liên kết ba bên: Nhà nước - Doanh nghiệp - Cộng đồng sáng tạo.
Trong mô hình này, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo và dẫn dắt, thông qua việc xây dựng chính sách, quy hoạch hạ tầng văn hóa, tạo cơ chế thuận lợi và bảo đảm các yếu tố pháp lý - tài chính. Còn doanh nghiệp tư nhân là lực lượng trực tiếp triển khai, khai thác, đầu tư và thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Nếu nhìn vào các mô hình thành công ở Pháp, Anh, Hàn Quốc hay Singapore, có thể thấy điểm chung là họ tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào hạ tầng văn hóa, sự kiện nghệ thuật và sản xuất nội dung. Tất cả đều dưới sự định hướng và đồng hành của chính phủ. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi mô hình đó, điều chỉnh cho phù hợp với thực tế địa phương để tạo cú hích cho ngành công nghiệp văn hóa phát triển bền vững.
- Thực tế, mô hình PPP đã được triển khai ở nhiều nơi tại Việt Nam, nhất là TP.HCM. Ông đánh giá như thế nào về thực trạng áp dụng mô hình này?
- Thực tế, ở TP.HCM và một số địa phương khác, mô hình hợp tác công - tư trong lĩnh vực văn hóa đã được áp dụng ở nhiều dạng mà tôi trực tiếp tham gia như tổ chức Lễ hội âm nhạc quốc tế TP.HCM (HOZO), Liên hoan phim Quốc tế TP.HCM (HIFF). Tuy nhiên, các dự án hiện nay vẫn dừng ở mức xã hội hóa, tức là doanh nghiệp tham gia theo từng chương trình ngắn hạn theo năm, chưa có cơ chế rõ ràng để hợp tác lâu dài, chia sẻ lợi ích và rủi ro với Nhà nước.
TP.HCM có nhiều lợi thế để đi đầu trong lĩnh vực này từ năng lực quản lý, hạ tầng, cho đến sự năng động của cộng đồng sáng tạo và doanh nghiệp tư nhân. Nhưng điểm nghẽn là các bên khó ký kết hợp đồng hợp tác dài hạn, như vậy sẽ rất khó để thu hút đầu tư vào các hoạt động và chương trình sáng tạo. Nếu thành phố có thể ban hành cơ chế thí điểm riêng, cho phép Nhà nước “đặt hàng” doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ và hạ tầng văn hóa, thì tôi tin đây sẽ là cú hích rất lớn để hình thành hệ sinh thái công nghiệp văn hóa bền vững.

Một phần trình diễn tại Lễ hội âm nhạc quốc tế TP.HCM vào tháng 10/2024. Ảnh: HOZO.
Để mô hình này phát huy hiệu quả, cần có sự cam kết mạnh hơn từ cả hai phía: Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý, ưu đãi về thuế, đất đai, và thủ tục; còn doanh nghiệp cần tiếp cận với tinh thần đồng hành, minh bạch, và hướng đến giá trị cộng đồng, chứ không chỉ lợi nhuận ngắn hạn.
Nếu làm được điều đó, PPP sẽ không chỉ là một “phương thức huy động vốn”, mà trở thành một mô hình phát triển bền vững cho công nghiệp văn hóa Việt Nam, nơi nguồn lực công và tư được kết nối để tạo ra giá trị xã hội, kinh tế và thương hiệu quốc gia.
- Nếu có một đề xuất chính sách cụ thể để phát triển công nghiệp văn hóa, cụ thể là thúc đẩy mô hình PPP, tại Việt Nam, ông sẽ kiến nghị điều gì?
- Nếu có một đề xuất chính sách cụ thể để thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt Nam, tôi cho rằng cần bắt đầu từ việc xây dựng khung pháp lý riêng cho mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong lĩnh vực văn hóa.
Cần sớm ban hành một chính sách thí điểm PPP văn hóa, cho phép khu vực tư nhân đầu tư và vận hành hạ tầng, dịch vụ văn hóa như rạp chiếu phim, bảo tàng, công viên nghệ thuật, hay không gian sáng tạo trong khi Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, hỗ trợ mặt bằng, hạ tầng cơ bản và ưu đãi thuế.
Ông Phạm Minh Toàn
Hiện nay, chúng ta đã nói nhiều đến xã hội hóa nhưng chưa có cơ chế rõ ràng để Nhà nước và doanh nghiệp cùng chia sẻ trách nhiệm, rủi ro và lợi ích trong các dự án văn hóa dài hạn. Vì vậy, cần sớm ban hành một chính sách thí điểm PPP văn hóa, cho phép khu vực tư nhân đầu tư và vận hành hạ tầng, dịch vụ văn hóa như rạp chiếu phim, bảo tàng, công viên nghệ thuật, hay không gian sáng tạo trong khi Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, hỗ trợ mặt bằng, hạ tầng cơ bản và ưu đãi thuế.
Bên cạnh đó, cần thành lập Quỹ đầu tư sáng tạo văn hóa tương tự như Quỹ đầu tư mạo hiểm có vốn mồi từ Nhà nước để thu hút các quỹ tư nhân, cũng như xây dựng bộ tiêu chí lựa chọn dự án dựa trên ba yếu tố: giá trị xã hội, hiệu quả kinh tế và bảo tồn bản sắc.
TP.HCM, với thị trường năng động và hệ sinh thái sáng tạo phát triển, hoàn toàn có thể trở thành địa phương tiên phong thí điểm mô hình này, qua đó chứng minh rằng khi Nhà nước và doanh nghiệp cùng đồng hành, công nghiệp văn hóa có thể trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn thực sự của Việt Nam.
Thực tế TP.HCM đã có cơ chế, chính sách đặc thù được áp dụng đầu tư theo phương thức đối tác công tư đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực thể thao và văn hóa tại khoản 5, Điều 4 của Nghị quyết số 98/2023/QH15, ngày 24-6-2023, của Quốc hội, “về thí điểm một số cơ chế chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh” và đã có 23 dự án văn hóa và thể thao được phê duyệt áp dụng cơ chế này tại Nghị quyết số 181/NQ-HĐND, ngày 8/12/2023, của Hội đồng nhân dân
Dự thảo chương trình hành động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng có nội dung lớn về Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam
- Tổ chức thực hiện Hệ giá trị quốc gia, Hệ giá trị văn hóa, Hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam.
- Thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa.
- Xây dựng cơ chế, chính sách đột phá cho phát triển các loại hình văn hóa nghệ thuật dân tộc, gắn kết chặt chẽ với sự phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả của các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí.
- Xây dựng, triển khai Đề án thúc đẩy các phong trào, hoạt động văn hóa cơ sở, lấy người dân làm chủ thể và trung tâm.
- Xây dựng các công trình văn hóa, thể thao ngang tầm khu vực và quốc tế, xứng đáng là biểu tượng của thời đại Hồ Chí Minh.
Nguồn Znews: https://znews.vn/chia-khoa-mo-duong-cho-cong-nghiep-van-hoa-viet-nam-post1600904.html











