Chuyên gia kiến nghị xem xét giãn tiến độ và giảm mức tăng thuế suất đối với ngành đồ uống
Dự thảo Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) (sửa đổi) đang được Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo và đang lấy ý kiến rộng rãi với nhiều sửa đổi quan trọng. Đối với ngành đồ uống, các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ mặt hàng, dịch vụ là đối tượng chịu tác động trực tiếp của đề xuất điều chỉnh của luật.
Với đề xuất: (i) tăng thuế suất theo lộ trình tăng liên tục hàng năm đến năm 2030 đối với mặt hàng rượu, bia và (ii) bổ sung mặt hàng nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế TTĐB.
Tình hình kinh tế, kinh doanh tại Việt Nam 2020-2024, ghi nhận phục hồi không đồng đều
Để tiếp tục ghi nhận và phản ánh các ý kiến đa chiều từ các chuyên gia, các đối tượng chịu tác động trực tiếp, gián tiếp, v.v nhằm đóng góp hoàn thiện dự thảo Luật. Ngày 8/8, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chủ trì, phối hợp với Hiệp hội Bia-Rượu-Nước giải khát Việt Nam (VBA) tổ chức hội thảo “Dự thảo Luật thuế TTĐB (sửa đổi) và ngành đồ uống”.
Khai mạc hội thảo, ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng thư ký, kiêm Trưởng Ban Pháp chế VCCI cho biết, thực hiện Nghị quyết 129/2024/QH15 của Quốc hội, Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý dự thảo sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8, vào tháng 10/2024 và trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9, tháng 5/2025.
Ông Nguyễn Văn Việt - Chủ tịch VBA cho biết, ngành đồ uống có vai trò kinh tế và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước khoảng gần 60 nghìn tỷ/năm và luôn đứng ở vị trí những doanh nghiệp đóng góp ngân sách nhất nhì địa phương, giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ sinh thái công nghiệp hướng tới một ngành đồ uống trách nhiệm và phát triển bền vững hơn nữa trong tương lai.
Trong mấy năm trở lại đây, ngành đã gặp rất nhiều khó khăn do Covid-19, các cuộc xung đột trên thế giới, các chính sách quản lý hạn chế,... các doanh nghiệp đã cố gắng tìm mọi cách để vượt qua khó khăn bằng nhiều giải pháp để tăng sức chống chịu, ổn định sản xuất, giữ công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp vẫn còn đang rất khó khăn, theo ghi nhận các chỉ tiêu sản lượng, doanh thu, lợi nhuận,... của các doanh nghiệp trong ngành đều giảm sút từ một tới hai con số kéo theo đó là cả các hệ thống thương mại, nhà hàng, dịch vụ, vận tải, chuỗi cung ứng đầu vào… đều bị ảnh hưởng.
Theo nhận định của TS Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV kiêm Giám đốc Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV phân tíc, tình hình kinh tế, kinh doanh tại Việt Nam 2020-2024, ghi nhận phục hồi không đồng đều, hành vi tiêu dùng, lối sống thay đổi, doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, ngành đồ uống lợi nhuận bình quân toàn ngành liên tục giảm (năm 2021 giảm 12%, năm 2022 giảm 6%, năm 2023 ước giảm 10-12% so với năm trước). Với tác động của luật thuế TTĐB sửa đổi có thể tăng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) trong ngắn hạn, nhưng trong trung - dài hạn sẽ làm giảm sức cầu tiêu dùng, giảm doanh thu và lợi nhuận doanh nghiệp, qua đó giảm thu thuế VAT và thuế TNDN… Như vậy, tổng hòa về việc tăng hay giảm thu thuế là chưa rõ? Cần đánh giá tác động một cách thấu đáo và toàn diện, để từ đó lựa chọn hướng sửa đổi phù hợp nhất với bối cảnh kinh tế của Việt Nam.
Lần sửa đổi thuế TTĐB gần nhất là vào năm 2014 theo đó, thuế suất các sản phẩm đồ uống có cồn đã tăng liên tục trong 3 năm 2016-2018. Theo bà Nguyễn Thị Cúc - Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam (VTCA), việc điều chỉnh tăng thuế suất các mặt hàng rượu bia trong thời gian tới là cần thiết và phù hợp chủ trương của Đảng và nhà nước. Tuy nhiên cần hướng đến chính sách thuế TTĐB hài hòa các mục tiêu và phù hợp bối cảnh cụ thể. Việc tăng thuế TTĐB cao, liên tục có thể không mang lại hiệu quả cao như mục tiêu của thuế TTĐB đề ra. Có thể việc tăng thuế làm tăng giá bán, có thể hạn chế sản xuất rượu bia, tuy nhiên chưa hẳn đã đạt được mục tiêu giảm tiêu dùng mặt hàng rượu bia do thực tế việc tăng thuế cao có thể dẫn đến hàng nhập lậu tăng, người tiêu dùng có thu nhập phân khúc cao chuyển sang uốngrượu, bia nhập lậu. Người tiêu dùng ở nông thôn, có thu nhập thấp có nhiều khả năng chuyển cơ chế tự cung, tự cấp và bán lấy lãi bằng cách dân tự nấu rượu, tự pha chế, không nộp thuế TTĐB, không đảm bảo chất lượng sản phẩm, gây ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân. Theo đó mục tiêu hạn chế tiêu dùng, đảo bảo sức khỏe cộng đồng khó thức hiện. Cân nhắc nghiên cứu kỹ thêm tác động tăng thuế nhanh, cao theo dự Luật đến thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng, sức khỏe cộng đồng. Xem xét phương án giãn thời gian tăng thuế suất có lộ trình để các doanh nghiệp có điều kiện xây dựng phương án, chuyển đổi sản xuất kinh doanh, không bị xáo trộn quá lớn. Ví dụ năm đầu tăng thuế suất 5%, các năm tiếp theo thuế suất sẽ tăng theo lộ trình vài năm thay vì 1 năm. Khi có chính sách hợp lý thì sẽ hài hòa hơn các mục tiêu đặt ra của thuế TTĐB, tăng thuế không quá đột ngột và có lộ trình để các tổ chức kinh doanh có thời gian chuyển đổi, không ảnh hưởng quá lớn đến các doanh nghiệp sản xuất , kinh doanh thương mại, dịch vụ ăn uống, đến thị trường và người lao động trong chuỗi cung ứng liên hoàn này.
Nguyên tắc của việc đánh thuế là cần đảm bảo cân bằng, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế
Theo PGS. TS Ngô Trí Long - chuyên gia kinh tế, nguyên tắc của việc đánh thuế là cần đảm bảo cân bằng, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế. Theo các chuyên gia, nguyên tắc quan trọng này đảm bảo nguồn thu cho NSNN nhưng không được để cho người nộp thuế lâm vào tình trạng khó khăn. Thực hiện nguyên tắc này, nhà nước sẽ không tạo ra những cú sốc tăng thuế cho doanh nghiệp, xã hội, cho người lao động. Nếu tổng số thuế phải trả quá lớn, đời sống người dân lao động không được đảm bảo; nền kinh tế sẽ bị trì trệ một cách gián tiếp; nguy cơ trốn thuế rất tiềm tàng… Với tỷ lệ tăng quá cao và tiến độ tăng thuế liên tục hàng năm trong các phương án do Bộ Tài chính đề xuất hiện nay chắc chắn sẽ dẫn đến sự sụt giảm về sản lượng nặng nề, hậu quả là Chính phủ sẽ thất thu thuế. Do đó cần xem xét cân nhắc kỹ việc tăng thuế trong bối cảnh kinh tế hiện tại của Việt Nam tránh gây “sốc” cho doanh nghiệp, mà vẫn đảm bảo nguồn thu NSNN.
Chuyên gia Bùi Thị Việt Lâm - đại diện Quốc gia, Hội đồng kinh doanh Hoa Kỳ - Việt Nam chia sẻ cũng giống như các quốc gia trên thế giới, sắc thế này không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách (đóng góp trung bình khoảng 1-3% vào GDP), giúp đảm bảo nguồn lực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà còn định hướng sản xuất và tiêu dùng, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Đồ uống có cồn trên thế giới được đánh thuế theo các phương pháp khác nhau, khi so sách thuế TTĐB ở các quốc gia trên thế giới có thể thấy việc so sánh mức thuế cao thấp giữa các quốc gia là rất khó, tỉ trọng trên giá bán lẻ lại còn khó hơn vì thuế TTĐB đối với đồ uống có cồn rất khác nhau ở các quốc gia, tùy thuộc rất nhiều yếu tố kinh tế, văn hóa xã hội, thu nhập người dân, các chính sách quản lý, độ tuổi cho phép uống rượu bia, thuế nhập khẩu, các sản phẩm phi chính thức v.v. Vì vậy, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh mà các quốc gia lựa chọn phù hợp: dễ áp dụng, hiệu quả, đạt được mục tiêu. Một trong những yêu tố cần lưu ý khi tăng thuế là tình trạng rượu bia bất hợp pháp trên thế giới, khu vực và các nước gần với Việt Nam đã gây thất thu thu ngân sách, rủi ro sức khỏe cho người tiêu dùng, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hợp pháp, coi thường pháp luật v.v đã và đang cần sự chung tay phối hợp của các quốc gia trên thế giới cũng như trong khu vực ASEAN. Thực tế cho thấy tăng thuế sẽ làm tăng thêm khoảng cách lợi ích giữa sản phẩm chính thức và bất hợp pháp, từ đó tạo động lực buôn lậu phát triển, chính vì vậy, Bà Bùi Thị Việt Lâm kiến nghị cần cân nhắc kỹ lưỡng việc tăng thuế cao gây sốc thị trường, ảnh hưởng nghiêm trọng tới các doanh nghiệp, kinh tế, xã hội và có nguy cơ gia tăng sản phẩm bất hợp pháp.
Liên quan tới vấn nạn rượu bia bất hợp pháp tại Việt Nam, ông Nguyễn Đức Lê - Phó Cục trưởng Cục Nghiệp vụ Quản lý thị trường (Tổng cục quản lý thị trường) chia sẻ các thông tin về thực trạng rượu bia bất hợp pháp, nguyên nhân và các giải pháp. Ông Nguyễn Đức Lê cho biết, hiện 63% lượng rượu tiêu thụ ở Việt Nam (chủ yếu là rượu thủ công do dân tự nấu, rượu giả, rượu không rõ nguồn gốc xuất xứ v.v) vẫn chưa được quản lý. Tình trạng này không những gây lo ngại về sức khỏe người sử dụng mà còn gây thất thu ngân sách, ảnh hưởng đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chân chính, tạo gánh nặng cho các cơ quan giám sát thực thi pháp luật. Trong 6 tháng đầu năm 2024, đơn vị đã kiểm tra xử lý 153 vụ liên quan đến mặt hàng rượu với số tiền xử phạt 1,5 tỉ đồng và 38 vụ liên quan đến mặt hàng bia với số tiền xử phạt 587 triệu đồng. Đây thực sự là con số rất nhỏ so với thực tế. Qua phân tích, ông Nguyễn Đức Lê cho rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như sự chênh lệch lớn giữa rượu bia hợp pháp và bất hợp pháp như thuế, chi phí tuân thủ cao, sự chấp nhận các sản phẩm bất hợp pháp của người tiêu dùng do thu nhập thấp, nhận thức kém, thông tin không rõ ràng, bị hấp dẫn do quảng cáo, xu hướng sính hàng ngoại xách tay, thực thi pháp luật còn yếu, lực lượng kiểm tra giám sát còn mỏng, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan...
TS Nguyễn Quốc Việt - Phó viện trưởng phụ trách Viện Nghiên cứu kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng, với 2 phương án đề xuất của Bộ Tài chính chưa rõ khả tăng nguồn thu bền vững cho NSNN trong bối cảnh xem xét chung với tỷ trọng các nguồn thu thuế khác như thuế VAT, thuế TNDN và thuế TNCN,… Cần đánh giá toàn diện hơn và có bằng chứng cụ thể cả tiêu cực khi tăng thuế đến kinh tế - xã hội, qua đó cơ sở đảm bảo tăng thu ngân sách được bền vững. Trong điều kiện kinh tế- xã hội có nhiều thay đổi so với giai đoạn trước Covid-19 và đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước – doanh nghiệp – người tiêu dùng, cần xác định mức thuế suất tạm thời để theo dõi mức độ đạt được kết quả phù hợp mục tiêu và các yếu tố liên quan. Nếu chưa rõ mọi tác động tổng thể toàn diện như yêu cầu phân tích RIA trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chỉ tăng thuế suất 1 lần vào 2026 rồi giãn cách 2 - 3 năm để có thời gian xem xét các mục tiêu lẫn tác động khác nhau.