Chuyện lạ trong nhà máy cao su: Cá Koi sống khỏe nhờ... nước thải
Không chỉ nuôi cá Koi trong nước thải, các doanh nghiệp cao su còn thu lợi hàng chục tỉ đồng từ bùn thải nhờ chiến lược xanh hóa và kinh tế tuần hoàn.
Các công ty cao su Việt Nam đang tạo ra bước chuyển mình mạnh mẽ, vượt ra khỏi mô hình sản xuất truyền thống để khẳng định vị thế trong nền nông nghiệp bền vững. Với chiến lược kinh tế tuần hoàn được ứng dụng đồng bộ, ngành cao su đang biến chất thải tưởng chừng vô dụng thành nguồn tài nguyên có giá trị cao.
Nuôi cá Koi trong nước thải nhà máy
Tại một công ty cao su lớn ở Đông Nam Bộ, giữa khuôn viên xanh mát, không ít người ngạc nhiên khi bắt gặp một hồ nước yên tĩnh, nơi đàn cá Koi nhiều màu sắc bơi lội.
Hồ cá này có điểm rất đặc biệt, đây không phải là hồ cảnh quan thông thường mà chính là nơi chứa nước sau khi đã trải qua chu trình xử lý thải lọc nghiêm ngặt của nhà máy sản xuất.
Theo chia sẻ từ Ban Giám đốc công ty, đàn cá Koi đã sinh sôi và phát triển khỏe mạnh trong hệ thống nước này suốt nhiều năm qua. Sự tồn tại của chúng là minh chứng sống động nhất cho chất lượng nước đầu ra, đảm bảo đạt chuẩn môi trường khắt khe.
Câu chuyện về đàn cá Koi thanh bình giữa môi trường công nghiệp đã trở thành biểu tượng cho nỗ lực sản xuất xanh mà các công ty cao su Việt Nam đang kiên trì theo đuổi. Tại các đơn vị này, nước thải từ quá trình chế biến mủ vốn chứa nhiều tạp chất sẽ được thu gom, đưa vào hệ thống xử lý sinh học hiện đại với quy trình khử lọc phức tạp.

Đàn cá Koi bơi trong hồ chứa nước sau khi đã trải qua chu trình xử lý thải lọc nghiêm ngặt của nhà máy sản xuất cao su. Ảnh: PHƯƠNG MINH
Tại Công ty Cổ phần Cao su Phước Hòa, chiến lược sản xuất xanh đã được ứng dụng nền tảng tạo ra chu trình khép kín. Để vừa giảm chi phí bảo vệ môi trường, vừa dùng nước hiệu quả, đơn vị này đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải rất hiện đại. Nước đã qua xử lý sẽ được bơm ngược trở lại để sử dụng cho việc sản xuất mủ cao su. Đây là giải pháp đột phá giúp công ty tiết kiệm lượng nước rất lớn, khoảng 20-50% tổng lượng nước cần dùng.
Tương tự, Công ty Cao su Lộc Ninh cũng trở thành điển hình cho nỗ lực đổi mới. Công ty đã hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải để tái sử dụng vào quy trình vệ sinh dây chuyền mủ cốm tạp. Việc tuần hoàn nước giúp đơn vị giảm đáng kể lượng nước tiêu thụ và tối ưu hóa chi phí xử lý môi trường.
Chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải
Không chỉ dừng lại ở xử lý nước, các doanh nghiệp cao su còn thực hiện bước chuyển mình mạnh mẽ trong sử dụng năng lượng.
Đơn cử như Công ty TNHH MTV Cao su Lộc Ninh đã đầu tư chuyển đổi nguồn nguyên liệu hóa thạch truyền thống sang sử dụng Biomass để sấy mủ. Mục tiêu của việc chuyển đổi này là giảm tiêu hao năng lượng hơn 20%, góp phần bảo vệ môi trường, cắt giảm đáng kể phát thải khí nhà kính và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Theo Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), xuất khẩu ngành cao su năm 2025 dự kiến tăng khoảng 3%, đạt 11,6 tỉ USD, trong đó cao su thiên nhiên hơn 3,2 tỉ USD, sản phẩm cao su khoảng 5,3 tỉ USD và gỗ cao su hơn 3,1 tỉ USD.
Hướng tới mục tiêu giảm thiểu tác động môi trường, Công ty TNHH MTV Cao su Phú Riềng cũng triển khai đồng bộ nhiều giải pháp xanh hóa trên toàn bộ chu trình hoạt động.
Đơn vị này đã chuyển đổi nguồn cung cấp nhiệt sấy mủ tại các nhà máy chế biến từ nhiên liệu hóa thạch sang sử dụng Biomass (sinh khối). Việc sử dụng Biomass được xem là giải pháp trung hòa carbon, đóng góp trực tiếp vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính.

Với hệ thống xử lý nước thải hiện đại, nước đã qua xử lý sẽ được bơm ngược trở lại để sử dụng, giúp tiết kiệm lượng nước rất lớn. Ảnh: PHƯƠNG MINH
Đồng thời, Phú Riềng đã lắp đặt và sử dụng điện từ hệ thống năng lượng mặt trời trên toàn bộ mái nhà từ văn phòng đến nhà xưởng.
Điều này không chỉ giảm chi phí điện năng mà còn tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo. Công ty thực hiện tái sử dụng nước thải và bùn thải phát sinh từ nhà máy chế biến, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc chuyển đổi từ xử lý chất thải sang tận dụng tài nguyên.
Biến bùn thải thành "vàng ròng"
Ngành cao su Việt Nam đang không ngừng học hỏi kinh nghiệm quốc tế về quản lý chất thải bền vững, đặc biệt là việc sử dụng bùn thải để sản xuất phân bón.
Ông Trần Hoàng Giang, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Cao su Phước Hòa cho biết, toàn bộ bùn thải phát sinh từ hệ thống xử lý nước thải được tận dụng hoàn toàn để sản xuất phân hữu cơ vi sinh cao cấp. Trước đây, loại bùn giàu hữu cơ này phải tốn kém hàng tỉ đồng để chôn lấp hoặc xử lý bên ngoài, nhưng giờ đây đã chuyển hóa thành tài nguyên quý giá.
Cụ thể, bùn thải sau khi lắng tách nước và phơi khô được ủ hoai, phối trộn với các chế phẩm vi sinh. Với sản lượng khoảng 2.000 tấn mỗi năm, nguồn phân bón tự nhiên này được sử dụng trực tiếp để bón cho vườn cây cao su của công ty, vừa cải tạo đất, nâng cao năng suất, vừa đóng lại chu trình tuần hoàn tài nguyên hoàn hảo.

Các công ty nâng cao điểm số ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) để tiếp cận các thị trường khó tính. Ảnh: PM
Việc chuyển hóa bùn thải thành phân bón hữu cơ vi sinh chất lượng tương đương thị trường, giúp công ty tiết kiệm ước tính trên 5 tỉ đồng/năm từ việc xử lý chất thải rắn và mua phân bón. Từ năm 2017-2025, công ty sản xuất được 15.000 tấn phân bón, tiết kiệm hơn 50 tỉ đồng.
Ông Trần Hoàng Giang, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Cao su Phước Hòa
Tiên phong áp dụng giải pháp sáng tạo khác, Cao su Bình Long tập trung vào mô hình sử dụng bùn thải từ chế biến mủ cao su để nuôi trùn quế. Ông Bùi Đình Bảy, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV Cao su Bình Long cho biết: "Công ty thu hoạch được khoảng 500 tấn phân trùn quế mỗi năm. Loại phân hữu cơ cao cấp này được dùng để bón trực tiếp cho hàng ngàn ha diện tích cao su, mang lại lợi ích tài chính và môi trường đáng kể".

Ngành cao su thúc đẩy chuyển đổi xanh, truy xuất nguồn gốc, đổi mới công nghệ giảm phát thải. Ảnh: PM
Theo các chuyên gia, việc biến chất thải thành phân bón giúp các công ty không còn phải chi hàng tỉ đồng mỗi năm cho xử lý bùn thải, giảm phụ thuộc vào phân bón hóa học.
Đặc biệt, phân trùn quế là "siêu thực phẩm" cho đất, giúp cải thiện cấu trúc đất và giữ nước tốt hơn. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đất được cải tạo giàu chất hữu cơ sẽ giữ lại carbon hiệu quả hơn, giúp các công ty nâng cao điểm số ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) để tiếp cận các thị trường khó tính.
Ngành cao su thích ứng EUDR, đón đầu cơ hội tín chỉ carbon
Trong bối cảnh thị trường nhiều biến động, ngành cao su Việt Nam vẫn nắm giữ cơ hội lớn để củng cố vị thế quốc tế nếu tận dụng tốt xu hướng phát triển bền vững. Các định hướng trọng tâm hiện nay bao gồm thúc đẩy chuyển đổi xanh, truy xuất nguồn gốc, đổi mới công nghệ giảm phát thải và đa dạng hóa thị trường với các sản phẩm chế biến sâu.
Đáng chú ý, việc Việt Nam được xếp vào nhóm "rủi ro thấp" trong Quy định Chống mất rừng của EU (EUDR) từ tháng 5-2025 là tín hiệu tích cực, giúp giảm đáng kể áp lực kiểm tra cho doanh nghiệp xuất khẩu. Thực tế, lộ trình thích ứng này đã được Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) chủ động triển khai qua dòng sản phẩm thương hiệu VRG GREEN.
Xuất khẩu ngành cao su năm 2025 dự kiến tăng khoảng 3%, đạt 11,6 tỉ USD. Ảnh: PM
Bên cạnh đó, thị trường tín chỉ carbon đang mở ra cánh cửa kinh tế mới. Với diện tích rừng trồng rộng lớn, ngành cao su có tiềm năng hấp thụ và lưu trữ carbon rất cao.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa nguồn thu này, ngành cần sớm hoàn thiện hệ thống đo đạc, kiểm chứng minh bạch. Tín chỉ carbon không chỉ mang lại lợi ích kinh tế bổ sung mà còn là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu xanh hóa chuỗi cung ứng toàn cầu.












