Cựu quan chức Australia: Hành động giảm thiểu nguy cơ chiến tranh hạt nhân
'Chúng ta phải hành động để giảm nguy cơ xảy ra chiến tranh hạt nhân' là tiêu đề bài viết của cựu quan chức cấp cao của chính phủ Australia John Carlson AM đăng trên tờ The Korea Times ra ngày 19/6.
Ông John Carlson đồng thời là Tổng giám đốc Văn phòng Bảo vệ và Không phổ biến vũ khí hạt nhân Australia từ năm 1989 đến năm 2010. Ông là thành viên cấp cao không thường trú của Trung tâm Giải trừ quân bị và Không phổ biến vũ khí hạt nhân Vienna (Áo), đồng thời là chuyên gia của Mạng lưới lãnh đạo châu Á-Thái Bình Dương về không phổ biến và giải trừ vũ khí hạt nhân. Sau đây là nội dung bài viết:
Cần thiết lập quy trình giải trừ vũ khí hạt nhân
Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres đã cảnh báo: “Nhân loại đang ở trên lưỡi dao. Nguy cơ sử dụng vũ khí hạt nhân đã đạt đến mức độ chưa từng thấy kể từ thời Chiến tranh Lạnh”. Cần có hành động khẩn cấp để giảm nguy cơ xảy ra chiến tranh hạt nhân và thiết lập một quy trình nhằm đạt được giải trừ vũ khí hạt nhân.
Giải trừ vũ khí hạt nhân không phải là một khát vọng phi thực tế. Đúng hơn, thật phi thực tế khi tin rằng vận may của chúng ta trong việc tránh được chiến tranh hạt nhân có thể kéo dài vô tận. Trong những năm qua, đã có một số trường hợp suýt xảy ra sai sót hoặc trục trặc gần như dẫn đến chiến tranh hạt nhân. Một lộ trình loại bỏ vũ khí hạt nhân, với các bước giảm thiểu rủi ro khẩn cấp, là điều bắt buộc đối với sự sống còn của nhân loại.
Như Tổng thống Mỹ Ronald Reagan đã công nhận vào năm 1984, một cuộc chiến tranh hạt nhân không thể thắng và không bao giờ được tiến hành. Trong ý kiến tư vấn năm 1996 về tính hợp pháp của vũ khí hạt nhân, Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) nhận thấy rằng bản chất bừa bãi, sức tàn phá và hậu quả môi trường của vũ khí hạt nhân có nghĩa là việc sử dụng chúng chắc chắn sẽ vi phạm luật nhân đạo quốc tế.
Trong một cuộc chiến tranh hạt nhân, không những dân thường ở các quốc gia tham chiến không thể được bảo vệ mà những hậu quả thảm khốc, bao gồm bụi phóng xạ và hiệu ứng “mùa Đông hạt nhân” cũng không thể chỉ giới hạn ở những quốc gia đó. Chiến tranh hạt nhân là mối đe dọa toàn cầu mà tất cả các nước đều có quyền được bảo vệ.
Mặc dù ICJ không thể kết luận liệu việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân có hợp pháp trong trường hợp tự vệ cực đoan hay không, nhưng ICJ nhấn mạnh rằng bất kỳ việc sử dụng vũ khí nào như vậy đều phải tuân thủ luật pháp quốc tế, một yêu cầu dường như không thể đáp ứng được. ICJ nhấn mạnh rằng tất cả các nước có nghĩa vụ theo đuổi các cuộc đàm phán dẫn đến giải trừ vũ khí hạt nhân. Đây là nghĩa vụ cụ thể đối với 190 nước ký tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT), trong đó có 5 quốc gia có vũ khí hạt nhân được công nhận như Mỹ, Anh, Nga, Pháp và Trung Quốc - và nghĩa vụ luật pháp quốc tế chung áp dụng cho bốn quốc gia không tham gia NPT mà sở hữu vũ khí hạt nhân như Ấn Độ, Pakistan, Triều Tiên và Israel.
Thật đáng trách khi các quốc gia có vũ khí hạt nhân phớt lờ nghĩa vụ theo đuổi giải trừ vũ khí hạt nhân. Với tư cách là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, các quốc gia có vũ khí hạt nhân tham gia NPT có trách nhiệm đặc biệt trong việc duy trì luật pháp quốc tế. Thiếu ý chí và tầm nhìn liên quan đến giải trừ quân bị, phản ánh ảnh hưởng của những người có sự nghiệp dựa trên vũ khí hạt nhân.
Thế giới không thể tiếp tục không hành động trong việc giải trừ vũ khí hạt nhân. Nguồn cảm hứng có thể được rút ra từ Hội nghị thượng đỉnh Reagan-Gorbachev Reykjavik năm 1985, cho thấy rằng việc các nhà lãnh đạo thế giới thống nhất về thời gian biểu cho việc loại bỏ vũ khí hạt nhân là trong tầm tay. Mặc dù hội nghị thượng đỉnh không đạt được mục tiêu này nhưng nó đã dẫn đến các thỏa thuận cắt giảm vũ khí lớn.
Khuôn khổ thực hiện
Những gì có thể được thực hiện? Giải trừ vũ khí hạt nhân là một thách thức lớn, nhưng những vấn đề hóc búa có thể được giải quyết bằng cách chia thành các bước riêng biệt để có thể đạt được tiến bộ. Việc giải quyết các vấn đề cụ thể có thể giảm thiểu rủi ro và góp phần tạo ra bầu không khí tích cực để có thể đạt được tiến bộ hơn nữa. Các chính phủ phải bị gây áp lực trong việc thiết lập một khuôn khổ để thực hiện việc này.
Đầu tiên, chính phủ các nước cần có hành động khẩn cấp về các biện pháp giảm thiểu rủi ro và căng thẳng. Các biện pháp này bao gồm các kênh liên lạc và đường dây nóng, giảm cảnh báo - loại bỏ vũ khí khỏi trạng thái phóng khi nhận được cảnh báo, hạn chế các trường hợp có thể sử dụng vũ khí hạt nhân - thỏa thuận “không sử dụng lần đầu” do Trung Quốc đề xuất, sẽ là một bước tiến lớn, và tăng cường kiểm soát quốc gia về thẩm quyền sử dụng vũ khí hạt nhân - số phận của thế giới không được giao trong tay một hoặc hai cá nhân.
Một lĩnh vực thiết yếu khác là khôi phục các cuộc đàm phán và phát triển các thỏa thuận mới về kiểm soát vũ khí. Điều này sẽ liên quan đến việc đặt ra các giới hạn về loại và số lượng vũ khí hạt nhân cũng như các hệ thống phân phối liên quan. Một khía cạnh quan trọng là việc loại bỏ cái gọi là vũ khí hạt nhân chiến thuật. Một lĩnh vực công việc khác sẽ liên quan đến việc xác minh, tính minh bạch và các thỏa thuận xây dựng lòng tin.
Cần có một quá trình tham gia liên tục, không chỉ về kiểm soát và giải trừ vũ khí mà còn về các vấn đề an ninh rộng hơn. Sự tham gia này có thể làm rõ những khác biệt, cải thiện sự hiểu biết lẫn nhau, xác định điểm chung, tìm ra giải pháp và xây dựng niềm tin. Cần nhấn mạnh vào ngoại giao và đối thoại chủ động. Sẽ cần có các diễn đàn mới ở cấp độ lãnh đạo và làm việc, và có thể ở cấp khu vực cũng như toàn cầu. Những diễn đàn này phải tập trung vào kết quả và không bị những bất đồng chính trị làm cho tê liệt, như đã xảy ra với Hội nghị Giải trừ quân bị.