Đã có kết luận bước đầu về thuyền cổ ở Bắc Ninh

Báo cáo kết quả bước đầu của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh cho thấy thuyền cổ có kết cấu phức tạp, kỹ thuật đóng thuyền tinh xảo, niên đại của thuyền có thể xuất hiện từ thời Lý, thời Trần.

Thuyền được đóng với kỹ thuật phức tạp

Ngày 3/5, ông Nghiêm Văn Hách, Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh - cho biết sở vừa có báo cáo kết quả bước đầu về giá trị, kết cấu và kỹ thuật đóng thuyền cổ được phát hiện gần thành Luy Lâu, thị xã Thuận Thành, Bắc Ninh vừa qua.

Cụ thể từ ngày 5/3, các nhà khoa học Viện Khảo cổ học đã khai quật khẩn cấp di tích thuyền cổ sau khi ông Nguyễn Văn Chiến (50 tuổi, trú Hà Mãn, thị xã Thuận Thành, Bắc Ninh) tình cờ phát hiện khi cải tạo đất để nuôi cá. Di tích nằm ở khu vực sông Dâu cổ - một nhánh của sông Thiên Đức (sông Đuống) chảy sát phía tây của thành Luy Lâu xưa.

Thuyền cổ ở Bắc Ninh có kết cấu phức tạp,

Thuyền cổ ở Bắc Ninh có kết cấu phức tạp,

Qua khai quật, các chuyên gia xác định thuyền cổ gồm hai khối nguyên vẹn, cách nhau 2,3m và được đấu nối bằng tấm gỗ ở phần đầu. Hai khối dài trên 16m, rộng 1,95 - 2,2m và có lòng sâu nhất chừng 2,15m. Phần đầu thuyền có một tấm ván hình chữ T dài gần 6,5m dùng để khóa chặt hai thân thuyền, trong khi phần đuôi có các cấu trúc được cho là nơi gắn bánh lái.

Về quy mô, dấu tích thuyền gồm 2 khối nằm nguyên vẹn, thuộc phạm vi lòng sông Dâu, có hướng vuông góc với dòng chảy của sông (thuyền nằm theo hướng đông-tây, dòng chảy sông Dâu theo hướng bắc-nam) và lệch về phía tây so với dấu tích của sông Dâu còn nhận diện được trên hiện trạng hiện nay.

Hai khối kết cấu này có quy mô tương tự, nằm cách nhau 2,3m (vị trí gần nhất, chính giữa) và được đấu nối với nhau bằng tấm gỗ ở phần đầu nhằm cố định hai khối kết cấu này với nhau, cụ thể: dài từ 16,10m đến 16,25m, rộng từ 1,95m đến 2,20m, khoang lòng sâu nhất là 2,15m.

Về cấu trúc, phần đầu của hai thân thuyền nằm ở phía đông, được đấu nối với nhau bằng tấm ván có dạng hình chữ T, dài 6,45m, khóa chặt vào 2 thân bằng các mộng và chốt gỗ rất kiên cố. Phần đuôi thuyền nằm về phía tây, tại đây, tấm ván bửng có dấu thủng và thanh gỗ chạy xuyên qua, từ cấu trúc này, các nhà nghiên cứu cho rằng, đây có thể là vị trí lắp bánh lái.

Đáy thuyền có kết cấu độc mộc, tức được chế tác từ một thân cây nguyên, đường kính rộng nhất là 0,95m, như thế có nghĩa, cây gỗ này phải có đường kính trên 1,0m thì mới có thể được dùng để chế tạo đáy thuyền.

Hai thân thuyền có cấu trúc tương tự nhau, được chia thành 6 khoang, trong đó: khoang đầu và đuôi thuyền là dài nhất, từ 3,8m đến 4,0m, các khoang còn lại có kích thước tương tự nhau là 2,1m. Thân thuyền được nối từ đáy lên đến mép trên của mạn thuyền bằng các tấm ván, tổng thể còn từ 7 đến 8 lớp ván, kích thước rộng từ 22cm đến 34cm, dày trung bình 4,5cm.

Các vách chia khoang có cấu trúc tương tự nhau, là các thanh gỗ được xếp lên tiếp từ đáy lên đến mặt ván mạn, kết nối với nhau bằng các mộng và chốt bằng gỗ. Khoang đầu mà khoang cuối có cấu trúc phức tạp nhất, gồm các thanh đà ngang và dọc nhằm tạo độ vững chãi cho toàn bộ thuyền.

Về kỹ thuật, toàn bộ hai thân thuyền được chế tác cùng kỹ thuật, đó là kỹ thuật đục thân cây độc mộc, ghép các dải ván bằng mộng, sau đó các mộng được chốt lại bằng đinh gỗ. Kỹ thuật phức tạp nhất thể hiện ở phần đầu và đuôi thuyền, đó là vị trí nối giữa phần đáy độc mộc và ván bửng được khóa chặt với nhau, cố định bằng 4 trụ gỗ có kích thước tương tự nhau 5cm x 5cm. Đây là kỹ thuật lần đầu tiên thấy được trong kỹ thuật đóng tàu thuyền cổ ở Việt Nam và thế giới.

Về vật liệu chế tác, toàn bộ hai thân thuyền đều sử dụng gỗ, hoàn toàn không tìm thấy kim loại. Điều đó cho thấy, việc tuân thủ tuyệt đối về sử dụng vật liệu để chế tác, ngay cả đối với những vị trí phức tạp nhất của thuyền.

Đề xuất mở rộng khai quật

TS. Phạm Văn Triệu, Phó Trưởng phòng Khảo cổ học lịch sử, thuộc Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho biết, thuyền hai đáy ở Bắc Ninh bị cháy ở phần mạn bên trên còn phần chìm ở dưới nước không bị cháy. Khi bị cháy thành than dòng chảy nước sẽ cuốn trôi toàn bộ than đi nên không còn lại vết tích gì ở đây.

Do đang chờ kết quả phân tích carbon-14 từ Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân, các nhà khoa học chưa khẳng định niên đại. Tuy nhiên căn cứ các tài liệu thuyền của Trung Quốc và thế giới, có ý kiến cho rằng thuyền có niên đại từ thế kỷ XI-XIV (thời Lý, thời Trần) và không muộn hơn thế kỷ XV.

Tư liệu thư tịch cũng nhắc đến loại thuyền này do nhà vua đóng. Ví dụ, sách Việt Sử lược chép "Năm 1106 (thời Lý)... nhà vua cho đóng thuyền Vĩnh Long hai đáy" trong khi sách Đại Việt sử ký toàn thư chép "Năm 1124 (thời Lý)... nhà vua cho đóng thuyền Tường Quang, kiểu thuyền hai lòng".

Để bảo vệ và phát huy giá trị di tích, Viện Khảo cổ học đề xuất mở rộng khai quật, nghiên cứu rộng ra toàn bộ không gian sông Dâu, nhằm giải mã vị trí, vai trò trong lịch sử. Giữ nguyên trạng thuyền tại chỗ, đồng thời khoanh vùng bảo vệ, bảo tồn khẩn cấp, tránh tác động của tự nhiên, xã hội. Xây dựng phương án bảo tồn lâu dài, phát huy giá trị của di tích, ví dụ tổ chức hội thảo cấp quốc tế hay lấp kín khu vực khai quật bài bản, khoa học.

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh kiến nghị tiếp tục mở rộng nghiên cứu để nhận diện giá trị của di tích trên tổng thể không gian sông Dâu trong lịch sử; Quy hoạch khu vực di tích thành điểm tham quan hấp dẫn, có cơ sở hạ tầng phục vụ du khách (nhà trưng bày nhỏ, lối đi, biển chỉ dẫn, khu vực nghỉ ngơi)...

Cùng với đó, tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế với sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành về thuyền cổ, lịch sử, văn hóa và các khoa học liên quan nhằm đánh giá giá trị di tích trong không gian rộng hơn, đồng thời tư vấn về giải pháp bảo tồn lâu dài và phát huy giá trị của di tích.

Tô Hội

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/da-co-ket-luan-buoc-dau-ve-thuyen-co-o-bac-ninh-1692505031547401.htm