Dã tật đành đã dã dề

'Đại từ điển tiếng Việt' (1999) ghi nhận: 'Thuốc đắng dã tật/ Thuốc đắng dã tật, sự thật mắc lòng: Thuốc đắng thì chóng khỏi bệnh, lời nói thẳng khó nghe nhưng bổ ích, chớ nóng giận, tự ái khi nghe lời nói thẳng'. Về chữ nghĩa, trước hết ta cần khảo sát từ 'dã' bởi cơn cớ gì lại xuất hiện trong trường hợp này?

Ca dao có câu: “Đậu xanh, rau muống, của chua/ Có tính dã thuốc chớ cho uống cùng”, ta hiểu “dã” ở đây là khi ai phải uống thuốc thì không nên ăn những thứ này bởi nó sẽ làm mất tác dụng của thuốc.

Tuy nhiên ta hiểu sao về từ “dã” trong “Thiên Nam ngữ lục”: “Đinh công thấy mặt ngùi ngùi/ Nghĩa thầy tớ cũ cùng ngồi dã nhau”? Xét theo các nghĩa vừa nêu, ắt ta thấy trật cù chìa; hoặc giả tôi đồ rằng do viết sai chính tả, phải là “giã” mới hợp lý. Ta hãy xét từ “giã”, tùy ngữ cảnh có thể hiểu là bỏ cái gì đó vào cối rồi dùng chày mà quết mà đâm, tỷ như: “Chàng về giã gạo ba trăng/ Để em gánh nước Cao Bằng về ngâm”.

Thúy Kiều - tranh vẽ trong bản “Truyện Kiều” in tại miền Nam.

Thúy Kiều - tranh vẽ trong bản “Truyện Kiều” in tại miền Nam.

Còn có thêm nghĩa khác của từ “giã”, chẳng hạn, hẳn nhiều người còn nhớ đến tâm trạng buồn não ruột của cô nàng quay tơ, dệt lụa trong thơ Nguyễn Bính: “Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ/ Mẹ bảo: Mùa xuân đã cạn ngày”. Đã hết ngày xuân, không chỉ “Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày” mà còn khi nhìn thấy từ hình ảnh hội chèo “đi qua ngõ” là bấy giờ hội đã hết, đã tan, đã vãn, nói cách khác chinh là lúc giã/ giã đám/ giã hội. Từ nghĩa này, ta dễ dàng hiểu câu cửa miệng: “Vui Đăm, rước Giá, hội Thầy/ Vui thì vui vậy chớ tầy giã La”. Thật thú vị, “giã” trong trường hợp này cũng gọi là “rã”, chẳng hạn một lũ “bác thằng bần” đang hùng hùng hổ hổ đỏ đen sát phạt, bỗng công an ập vào, thế là… rã sòng!

Xét rằng, nếu “dã” trong câu: “Đinh công thấy mặt ngùi ngùi/ Nghĩa thầy tớ cũ cùng ngồi dã nhau”, nếu đổi qua “giã” thì vẫn không nói lên điều gì cả. Vậy, dứt khoát phải là “dã”. Nếu “Giã sư, giã cảnh đều cùng bước ra” là cách nói tắt của giã biệt/ từ giã thì “Nghĩa thầy tớ cũ cùng ngồi dã nhau” cũng vậy, là nói gọn của từ “dã dề” mà ta đã gặp trong “Truyện Kiều”: “Tiểu thư đón cửa dã dề/ Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa”. Vâng, chính xác thế, vì “dã/ dã dề” trong ngữ cảnh này có nghĩa là trò chuyện, chuyện trò, thăm hỏi nhau.

Trở lại với câu “Thuốc đắng dã tật”, còn có gì bàn nữa không? Đã rõ nghĩa rồi, vì như đã nói “dã” trong trường hợp này này là làm cho phai, cho nhạt, cho giảm dần, cụ thể là nhờ “thuốc đắng”. Hiểu như vậy hợp lý quá đi chứ? Tuy nhiên, nếu nói đúng phải là “Thuốc đắng đã tật”. Nghe lạ tai nhỉ? Ngoài các nghĩa như trên chỉ việc đã qua, đã xong; còn là “Tiếng dùng đứng sau câu để truyền khiến hay bảo nhau đừng là việc khác vội: khoan đã, ăn đã” - theo “Việt Nam tự điển” (1931) v.v.., vậy, còn hàm nghĩa gì nữa?

Ta hãy xét từ thơ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh khiêm: “Bếp trà hâm đã, xôi măng trúc/ Nương cỏ cày thôi, vãi hạt muồng”. Xét theo phép đối xứng trong luật thơ thất ngôn ắt “đã” và “thôi” phải đối nhau, và cả hai cùng nghĩa là xong, rồi, hết. Lại nữa, ta còn tìm thấy trong tục ngữ “Đau chóng đã chầy”, “Khó muốn giàu, đau muốn đã” thì “đã” hàm nghĩa là khỏi. Khi ai đó, bảo: “Chà, đang cháy khô họng, được uống ly trà đá này thiệt đã khát”, là hết khát, không còn khát nữa. Từ “đã” trong câu “Thuốc đắng đã tật” cũng hiểu tương tự.

Tại sao từ “đã” lại nhảy cái vèo qua “dã”, đơn giãn nghĩa vừa nêu trên về từ “đã” ít ai còn nhớ đến, người ta bèn lái sang “dã”. Trải dài theo năm tháng, từ “dã” đã được mọi người chấp nhận mà quên béng đi từ “đã” đã có trước đó. Qua đó, ta thấy cái sự lắt léo của tiếng Việt còn là lúc người ta chấp nhận từ khác nhằm thay thế cho từ vốn có, dẫu rằng, chưa chắc đã sát nghĩa. Một khi đã biết như thế, ta cắc cớ đặt ra câu hỏi, xác định “đã” biến thành “dã”, vậy với từ “đành đã” liệu có phải chính là “đành dã”?

Đi đâu vội bấy anh ơi

Việc quan đành đã chị tôi ở nhà

Đành là đành cái gì, chuyện gì? Do không có thêm “dữ kiện” gì nên chúng ta khó có thể đoán biết. Thay vì “ăn ốc nói mò”, cách tốt nhất vẫn là tra cứu “Đại từ điển tiếng Việt” (1999) xem sao. “Đành: 1. Chấp nhận một cách miễn cưỡng bắt buộc vì thấy không thể khác hơn: đành chịu vậy, đành bó tay. 2. Nỡ đang tâm: Bỏ đi sao đành. 3. Vừa lòng: Chàng đành phụ mẫu không dành”. Cả ba nghĩa này, có thể áp dụng giải thích câu ca dao trên? Nếu thế, nghĩa của nó thế nào?

Trong khi chờ câu trả lời, chúng ta hãy tiếp tục xét từ “đành” ở câu tục ngữ: “Bát bể đánh con sao đành”. Hoàn toàn có thể hiểu theo nghĩ thứ 2 là ý nói, cái bát ấy đã bể toang, vỡ nát, sao nỡ/ sao lại đang tâm đánh con mình? Lời thốt lên này ra ra hợp lý, há ta chẳng từ nghe câu “Người còn thì của cũng còn/ Miễn là nhân nghĩa vuông tròn thì thôi”, “Còn người còn của” đấy sao? Cái bát có bể đi thì thôi, chứ con mình, mình “nâng như trứng, hứng như hoa”, sao nỡ đánh nó? Một khi thốt lên “sao nỡ/ sao đành”, ta còn có thể tìm thấy trong câu dao thống thiết ở miền Nam:

Tay cắt tay sao nỡ

Ruột cắt ruột sao đành

Lời anh thề nước biếc non xanh

Theo anh cho trọn tử sanh tại trời

Thêm dẫn chứng này, ta thấy, cách giải thích câu “Bát bể đánh con sao đành” là “chuẩn cơm mẹ nấu”, không còn gì lăn nữa. Có đúng không?

Không đúng.

Hiểu như thế là… trật. Câu này đã phạm vào nguyên tắc đối xứng mà tục ngữ vốn thường sử dụng trong phạm trù trái nghĩa, thí dụ “bể - lành”/ “rách-lành”… Dù chọn lọc vài từ nhưng thông thường câu ấy có 2 vế tiểu đối, thí dụ, “Ăn bát mẻ, ngủ chiếu manh”, “Điều lành thì nhớ, điều dở thì quên”… Vậy “bể” đối với “lành”, còn từ “đành” lạc quẻ kia ta đành phải loại bỏ. Do đó, cần khẳng định, câu tục ngữ này chính xác phải là “Bát bể đánh con sao lành”. Cái bát ấy không còn nguyên vẹn bởi con mình làm bể vì lý do gì đó, tiếc quá mình bèn đánh con cho đã nư đã giận, dẫu có đánh lắm đi nữa thì nó cũng không lành lại được, hiểu theo nghĩa bóng là làm một việc vô ích, không thể thay đổi được tình thế.

Lúc lần đầu gặp Thúc Sinh, Thúy Kiều giãi bày tâm sự: “Lại càng dơ dáng dại hình/ Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng”. Còn người đàn bà trong “Chinh phụ ngâm” khi nghĩ về người chồng xa xôi nơi chiến tranh, bỏ mình phòng không bóng chiếc đã tự nhủ: “Ðành muôn kiếp chữ tình đa ävậy”. Từ “đành” trong ngữ cảnh này là hiểu theo nghĩa 1, tức là cam chịu, đành phải, buộc phải chấp nhận thân phận của mình.

Vậy, lúc thi hào Nguyễn Du miêu tả về Thúy Kiều: “Một hai nghiêng nước, nghiêng thành/ Sắc đành đòi một, tài đành họa hai” là chọn nghĩa nào trong 3 nghĩa mà “Đại từ điển tiếng Việt” đã giải thích? Không theo nghĩa nào cả. Tuy nhiên, về mặt chữ nghĩa, hậu sinh chúng ta có quyền thắc mắc tại sao từ “đòi” lại xuất hiện trong ngữ cảnh này. Nghĩa của nó là gì cơ chứ? “Trên non túc một tiếng còi/ Thương con nhớ vợ, quan đòi phải đi/ Không đi thì sợ quan đòi/ Ra đi thì nhớ cá mòi nấu măng”. Đòi ở đây có nghĩa là gọi đến, vời đến mà buộc mình phải đến. Trong thơ Nôm, cụ Nguyễn Trãi có viết: “Sóng khơi ngại vượt bể triều quan/ Lui tới đòi thời miễn phận an”; hoặc “Hồng Đức quốc âm thi tập” có câu: “Xuất xử đòi thời đều phải đạo/ Trong đời há có mấy lầm ai”… Suy ra, “đòi” trong ngữ cảnh này cũng hiểu nghĩa như trên? Không, có nghĩa là tùy theo, theo hoàn cảnh, số phận…

Thế thì khi cũng sử dụng từ đòi, Nguyễn Trãi viết: “Nhật nguyệt soi đòi bóng hiện/ Đông hè trải đã xưa nay” hoặc trong “Lục Vân Tiên” có câu: “Nói rồi lụy nhỏ đòi cơn/ Cùng nhau một sự oán hờn nên gây”. Ta hiểu ra làm sao? Nếu áp dụng nghĩa “gọi đến”, “tùy theo”… ắt câu thơ chẳng có nghĩa gì cả. Xin thưa, “đòi” trong trường hợp này cũng như “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai” nghĩa là nhiều, nhiều lắm. Câu thơ trên có thể giải thích, về nhan sắc của Thúy Kiều thì “đòi một”, đòi/ nhiều lắm cũng chỉ có một; về tài thì “họa hai” thì họa may, họa ra chỉ có mỗi người thứ hai sánh bằng, chứ về nhan sắc chỉ có một.

Trở lại với câu ca dao: “Đi đâu vội bấy anh ơi/ Việc quan đành đã chị tôi ở nhà” là ta cũng hiểu từ “đành” theo “Đại từ điển tiếng Việt” (1999) giải thích là chấp nhận một cách miễn cưỡng, là sao đành, là vừa lòng? Không. Đành trong tình huống này từ điển đã bỏ sót: cố nhiên, dĩ nhiên. Ý muốn nói, anh đi đâu mà vội chừng ấy/ vội dường ấy (vội bấy), việc quan thì dĩ nhiên (đành/ đã đành) ở nhà đã có vợ (chị tôi) lo rồi. Nói cách khác, anh ơi, ở nhà cố nhiên đã có vợ lo việc quan thì hà cớ gì anh phải đi vội đến thế? Có phải là câu chủ động “thả thính”, chắc gì, bởi một khi nhắc đến “chị tôi ở nhà”, chỉ là một cách “bắt nọn” đấy thôi.

Tinh quái đến thế là cùng.

Lê Minh Quốc

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/da-tat-danh-da-da-de-i778350/