Đại biểu Quốc hội TP. Huế kiến nghị về tự chủ giáo dục và quản lý đào tạo nhân lực y tế
HNN.VN - Chiều 20/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, các đại biểu thảo luận sôi nổi về các chính sách giáo dục và đào tạo.

Đại biểu Nguyễn Thị Sửu tham gia thảo luận ở hội trường. Ảnh: Đoàn ĐBQH thành phố
Trao quyền tự chủ cho giáo dục phải đi kèm giám sát
Tham gia thảo luận tại hội trường, Phó Trưởng đoàn ĐBQH TP. Huế Nguyễn Thị Sửu đặc biệt quan tâm đến nội dung tăng cường quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục - một chủ trương lớn của Đảng trong nhiều năm qua và cũng là trọng tâm của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục.
Theo đại biểu Nguyễn Thị Sửu, dự thảo luật đã mở rộng quyền tự chủ trong nhiều lĩnh vực như thành lập cơ sở giáo dục, tuyển dụng nhân sự, quản lý học phí, tổ chức đào tạo, kiểm định chất lượng… Tuy nhiên, việc trao quyền tự chủ hiện thiếu các tiêu chí cụ thể để đánh giá năng lực, chưa gắn với cơ chế giám sát, dẫn đến nguy cơ lạm quyền, lạm thu; quan hệ giữa hội đồng trường, nhà đầu tư và chính quyền địa phương cũng chưa rõ ràng.
Về thành lập và cấp phép hoạt động cơ sở giáo dục, đại biểu Sửu cho rằng tiêu chí cấp phép còn chung chung, chưa quy định rõ điều kiện tài chính, chất lượng đội ngũ, chuẩn đầu ra hay sự phù hợp với quy hoạch giáo dục của địa phương. Điều này có thể tạo kẽ hở cho những cơ sở năng lực yếu tham gia thị trường. Bà Sửu đề nghị bổ sung các tiêu chí cụ thể như: kế hoạch phát triển phù hợp quy hoạch, điều kiện tài chính tối thiểu, đội ngũ đạt chuẩn về trình độ và đạo đức nghề nghiệp, cơ sở vật chất – công nghệ đáp ứng yêu cầu đào tạo; đồng thời giao Bộ GD&ĐT hoặc cơ quan thẩm quyền địa phương đánh giá năng lực ban đầu trước khi cấp phép.
Về nhân sự quản lý và nhân sự hỗ trợ giáo dục, đại biểu Nguyễn Thị Sửu nhận định dự thảo cho phép cơ sở giáo dục tự chủ tuyển dụng là phù hợp xu thế, nhưng tiêu chí tuyển dụng và đánh giá năng lực còn mờ nhạt. Bà đề nghị quy định rõ tiêu chuẩn tuyển dụng, quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ quản lý và nhân sự hỗ trợ; thiết lập cơ chế giám sát hiệu quả công việc. Đại biểu cũng đề xuất sửa đổi điểm c khoản 2 Điều 71a theo hướng yêu cầu cán bộ quản lý cơ sở giáo dục công lập phải có bằng đại học trở lên, chứng chỉ quản lý giáo dục và tối thiểu 5 năm kinh nghiệm.
Liên quan đến học phí và dịch vụ hỗ trợ giáo dục, bà nhấn mạnh việc trao quyền tự chủ tài chính cho cơ sở giáo dục tư thục, dân lập là cần thiết để linh hoạt nguồn lực và đáp ứng nhu cầu người học. Tuy vậy, nếu không có cơ chế giám sát, nguy cơ lạm thu và thiếu minh bạch sẽ rất lớn. Bà đề nghị quy định khung học phí tối thiểu - tối đa cho từng cấp học, công khai đầy đủ học phí, chi phí đào tạo và dịch vụ hỗ trợ theo từng khóa, từng năm học; đồng thời làm rõ trách nhiệm của cơ sở giáo dục trong bảo đảm quyền lợi người học.
Đại biểu Nguyễn Thị Sửu đồng tình với nhiều ý kiến trước đó về đào tạo bác sĩ nội trú và bác sĩ chuyên khoa. Bà Sửu cho rằng kinh nghiệm quốc tế cho thấy đào tạo bác sĩ nội trú được thực hiện chủ yếu tại bệnh viện, như mô hình ở châu Âu, Bắc Mỹ, Hàn Quốc… và sau đó bác sĩ còn phải trải qua thời gian thực hành bổ sung trước khi được hành nghề. Đào tạo chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 cũng là yêu cầu thiết yếu nhằm nâng cao năng lực thực hành của đội ngũ bác sĩ.
Từ những phân tích trên, đại biểu Nguyễn Thị Sửu đề nghị Chính phủ quy định cụ thể cơ chế đào tạo bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa và các chương trình đào tạo đặc thù của khối ngành sức khỏe theo thông lệ quốc tế, bảo đảm chất lượng nhân lực y tế trong bối cảnh mới.

Đại biểu Nguyễn Hải Nam tham gia tranh luận. Ảnh: Đoàn ĐBQH thành phố
Đào tạo nhân lực y tế phải do Bộ Y tế quản lý
Liên quan đến nội dung quản lý đào tạo khối ngành y, tham gia tranh luận đại biểu Nguyễn Hải Nam (Đoàn ĐBQH TP. Huế) đề nghị cần xem xét lại mô hình quản lý đối với các trường đại học y khoa.
Theo ông Nam, thay vì trực thuộc Bộ GD&ĐT như quy định trong dự thảo luật, đại học y nên được đặt dưới sự quản lý của Bộ Y tế để phù hợp với tính đặc thù của ngành.
Đại biểu Nguyễn Hải Nam nêu 7 nhóm lý do: Thứ nhất, đào tạo nhân lực y tế liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng người dân nên phải được quản lý theo ngành. Mọi quy chuẩn chuyên môn từ tiêu chuẩn hành nghề, an toàn người bệnh đến quy trình kỹ thuật đều do Bộ Y tế ban hành. Vì vậy, chương trình đào tạo y khoa cần gắn chặt với hệ thống bệnh viện và thực hành lâm sàng để đảm bảo chất lượng.
Thứ hai, mô hình này phù hợp thông lệ quốc tế. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, việc quản lý đào tạo nhân lực y tế đều do Bộ Y tế đảm trách; tại Anh hay Đức, dù đại học tự chủ nhưng các chuẩn năng lực thực tập, cấp phép hành nghề đều do Bộ Y tế quy định và giám sát.
Thứ ba, Bộ Y tế là cơ quan duy nhất nắm rõ nhu cầu nhân lực của ngành. Cơ quan này có khả năng dự báo tình trạng thừa - thiếu bác sĩ chuyên khoa, điều dưỡng, kỹ thuật viên; từ đó xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp, tránh lãng phí nguồn lực xã hội.
Thứ tư, quản lý theo ngành giúp nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo nhờ sự phối hợp trực tiếp giữa trường y - bệnh viện - viện nghiên cứu. Đây cũng là cách hạn chế tình trạng “hàn lâm hóa”, tách rời đào tạo với thực tiễn lâm sàng.
Thứ năm, mô hình này giúp giảm rủi ro thương mại hóa đào tạo y khoa trong bối cảnh xã hội hóa, tự chủ đại học ngày càng mở rộng. Việc chạy theo chỉ tiêu, tăng nguồn thu có thể ảnh hưởng đến chất lượng tuyển sinh và đào tạo nếu không được kiểm soát bởi cơ quan chuyên ngành.
Thứ sáu, ngành y có yêu cầu đặc thù về đạo đức nghề nghiệp và chuẩn mực hành xử. Bộ Y tế với kinh nghiệm quản lý đội ngũ thầy thuốc mới có thể xây dựng, tích hợp và giám sát thực thi chuẩn đạo đức nghề nghiệp trong đào tạo lẫn thực hành.
Thứ bảy, quản lý tập trung giúp tăng khả năng điều phối nhân lực trong tình huống khẩn cấp như dịch bệnh hay thiên tai. Thực tiễn Covid-19 cho thấy Bộ Y tế đã điều phối hiệu quả lực lượng sinh viên, bác sĩ nội trú từ các trường y tham gia chống dịch.
Đại biểu Nguyễn Hải Nam đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc các nhóm lý do trên để bảo đảm chất lượng đào tạo và đáp ứng yêu cầu thực tiễn của ngành y.













