Đất 5% và những điều cần biết

Dù chỉ thể hiện ở một tỷ lệ % nhỏ trong tổng quỹ đất nông nghiệp của toàn quốc nhưng số lượng đất 5% đang nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn tranh cãi về chủ quyền của người đang sử dụng đất.

 Đất 5% là loại đất nông nghiệp, thuộc quyền quản lý, sử dụng của UBND cấp xã. (Ảnh: chinhphu.vn)

Đất 5% là loại đất nông nghiệp, thuộc quyền quản lý, sử dụng của UBND cấp xã. (Ảnh: chinhphu.vn)

Đất 5% là gì?

Theo Luật sư Quách Thành Lực - Giám đốc Công ty Luật TNHH Pháp Trị, sau một thời gian các cơ quan, ban ngành vận động nông dân đưa ruộng đất nông nghiệp vào Hợp tác xã để thực hiện sản xuất tập trung thì thực tế cho thấy hiệu quả kinh tế không đạt được như kỳ vọng ban đầu.

Do vậy, Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 05/04/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm hộ và hộ xã viên, đến người lao động và đến tổ, đội sản xuất tùy theo điều kiện của ngành nghề cụ thể ở từng nơi, gắn kế hoạch sản xuất với kế hoạch phân phối từ đầu”. Việc khoán sản phẩm gắn với việc giao thí điểm một số diện tích ruộng, đất cho người dân.

Sau một thời gian khoán sản phẩm đạt hiệu quả cao, đến khoảng năm 1990 trong toàn quốc tại mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh thực hiện việc giao ruộng đất ổn định lâu dài cho nông dân theo tỷ lệ 95% giao cho nông dân, 5% giao cho UBND xã quản lý.

 Luật sư Quách Thành Lực.

Luật sư Quách Thành Lực.

Như ở tỉnh Hải Hưng (hiện nay là Hưng Yên và Hải Dương), Nghị quyết số 03/NQ/TU ngày 28/04/1992 của Tỉnh ủy khẳng định:

“Về đất canh tác:

+ Trên dưới 95% quỹ đất canh tác phải được giao ổn định lâu dài cho hộ xã viên trên cơ sở tôn trọng luật đất đai và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị.

+ Trên dưới 5% còn lại cộng với đất chuyên dùng và đất khác như: hồ, đầm, đồi rừng, vườn cây tập thể sẽ được coi là “đất công” hay “công điền” Nhà nước cũng cấp giấy phép sử dụng và giao cho UBND xã quản lý dùng cho các nhu cầu chung.

... Như vậy, toàn bộ đất sản xuất nông nghiệp chỉ chia làm 2 quỹ: đất giao cho hộ chia một lần ổn định lâu dài và quỹ đất công điền”.

Tại Luật Đất đai năm 1993, đất 5% chính thức được luật hóa. Cụ thể, tại Điều 45 Luật Đất đai năm 1993 quy định, căn cứ vào quỹ đất đai, đặc điểm và nhu cầu của địa phương, HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định mỗi xã được để lại một quỹ đất không quá 5% đất nông nghiệp để phục vụ cho các nhu cầu công ích của địa phương. Chính phủ quy định cụ thể việc sử dụng đất này.

Sau này trải qua các thời kỳ Luật Đất đai năm 2003, 2013 và hiện nay là 2024 bản chất đất công ích không thay đổi, luôn là một bộ phận đất nông nghiệp do UBND cấp xã quản lý.

Đất 5% có phải đất công ích không?

Đất công ích do cấp xã quản lý được hình thành từ nhiều nguồn. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 132 Luật Đất đai 2013 quy định về đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích như sau: “Căn cứ vào quỹ đất, đặc điểm và nhu cầu của địa phương, mỗi xã, phường, thị trấn được lập quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích không quá 5% tổng diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản để phục vụ cho các nhu cầu công ích của địa phương.

Đất nông nghiệp do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trả lại hoặc tặng cho quyền sử dụng cho Nhà nước, đất khai hoang, đất nông nghiệp thu hồi là nguồn để hình thành hoặc bổ sung cho quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn”.

Như vậy, đất 5% là một trong những nguồn để hình thành quỹ và là một bộ phận của quỹ đất công ích do UBND cấp xã quản lý.

Luật sư Quách Thành Lực cũng cho biết, tại khoản 1 Điều 179 Luật Đất đai 2024 quy định: “Quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích đã được lập theo quy định của pháp luật về đất đai qua các thời kỳ thì tiếp tục được sử dụng để phục vụ cho các nhu cầu công ích của địa phương”.

Quy định trên đã khẳng định một điều rõ ràng, dứt khoát rằng UBND cấp xã cũng chỉ là một chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Chủ thể này phải được xác lập quyền sử dụng đất một cách có căn cứ, quỹ đất “đã được lập theo quy định”, được hình thành hợp pháp - đồng nghĩa với việc có việc trích lập 5% khi giao đất, có văn bản hoặc quyết định cụ thể, có hồ sơ quản lý, hợp đồng giao khoán hoặc cho thuê, có thu tiền... mới được công nhận là đất công ích.

Người dân đang sử dụng đất có tình trạng tranh chấp, không phân định rõ đất công ích do UBND xã quản lý hay đất thuộc quyền quản lý của người dân thì có toàn quyền đề nghị phân định, tranh chấp quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền.

Hồng Thương - Gia Hải

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/dat-5-va-nhung-dieu-can-biet-post551727.html