Đất hiếm, không thể đột phá nếu vẫn khai thác thô
Nhu cầu nam châm vĩnh cửu, vật liệu pin mặt trời và linh kiện UAV đang tăng mạnh, nhưng chuỗi chế biến sâu đất hiếm của Việt Nam vẫn mỏng. Trong khí đó các dự án khai thác đất hiếm ở Việt Nam hiện nay cho thấy bài toán không còn nằm ở trữ lượng, mà ở tư duy công nghệ và cơ chế đầu tư.
Đột phá nghiên cứu chỉ có ý nghĩa khi gắn với thị trường
Trong hội nghị thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của các viện, trường trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường đầu tháng 11, Bộ trưởng Trần Đức Thắng gửi một thông điệp rất “trúng huyệt”: phải mạnh dạn đề xuất đề tài gắn với chế biến sâu khoáng sản, nhất là đất hiếm, nền tảng của nam châm vĩnh cửu, pin mặt trời và thiết bị bay không người lái.

Thông điệp này đến đúng thời điểm. Thứ nhất, chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái cấu trúc theo hướng giảm phụ thuộc. Các doanh nghiệp Mỹ, Nhật, châu Âu đều đẩy mạnh tìm nguồn cung đất hiếm mới, thay vì phụ thuộc vào Trung Quốc. Thứ hai, Việt Nam đang có tiềm năng lớn đất hiếm trên thế giới, nhưng phần lớn dự án mới dừng ở mức tuyển, tách, xuất quặng tinh. Giá trị gia tăng nằm ở công đoạn sau đó, luyện oxit riêng rẽ, tách kim loại, chế tạo vật liệu. Đây là “vùng trũng” mà Việt Nam chưa bước vào.
Theo Cục Địa chất và Khoáng sản, nước ta có trữ lượng khoảng 22 triệu tấn oxit đất hiếm (REE oxide), từng được xem là đứng thứ hai thế giới. Tuy nhiên, Báo cáo khoáng sản năm 2025 của Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ (USGS) đã điều chỉnh lại con số này còn khoảng 3,5 triệu tấn, xếp thứ sáu sau Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ, Australia và Nga. Dù cách tính khác nhau, điểm chung là Việt Nam vẫn được xếp vào nhóm quốc gia có tiềm năng lớn.
Đất hiếm gồm 17 nguyên tố, là nguyên liệu thiết yếu cho xe điện, tua-bin gió, pin, chip và công nghệ quốc phòng. Khi thế giới chuyển dịch sang năng lượng xanh, đất hiếm trở thành “dầu mỏ của kỷ nguyên mới”. Vấn đề không còn là trữ lượng bao nhiêu, mà là chúng ta có thể giữ lại bao nhiêu giá trị trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hiện hai dự án lớn là mỏ Bắc Nậm Xe (Lai Châu) và mỏ Bến Đền (Lào Cai) đã trình đánh giá tác động môi trường gần đây, được kỳ vọng hình thành “chuỗi đất hiếm Tây Bắc”. Dự án Nậm Xe có quy mô khai thác 600.000 tấn quặng/năm, trữ lượng 20 triệu tấn quặng, thời gian vận hành tới 38 năm. Bến Đền nhỏ hơn nhưng cùng cấu trúc địa chất, có thể tạo liên kết vùng. Tuy nhiên, cả hai mới dừng ở khâu tuyển quặng, tức rửa, sàng, tách sơ bộ. Giai đoạn giá trị nhất là phân tách và tinh chế oxit đất hiếm vẫn chưa được thực hiện trong nước.

Báo cáo đánh giá tác động môi trường của 1 dự án khai thác đất hiếm.
Báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án Bắc Nậm Xe vào năm 2023 cho thấy doanh nghiệp đã nghiên cứu và chọn được công nghệ tuyển phù hợp với quặng carbonatit biến chất đặc thù của mỏ, phối hợp với Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim để hoàn thiện sơ đồ công nghệ. Tuy nhiên, dự án vẫn nằm trong khuôn khổ khai thác - tuyển quặng, chưa phải chế biến sâu. Hệ thống tuyển nổi, tuyển tinh ba cấp, cô đặc - lọc… chỉ tạo ra quặng tinh phục vụ các nhà máy phía sau. Nghĩa là “đột phá khoa học” ở đây mới dừng ở mức tối ưu hóa tuyển khoáng, chưa chạm tới vật liệu ứng dụng.
Vậy nếu viện, trường mạnh dạn nhận lời kêu gọi của Bộ trưởng, nghiên cứu sẽ đi theo hướng nào? Bài toán thực chất không phải tìm “thuốc tuyển mới”, mà là công nghệ phân tách REE (rare earth elements), tách oxyt theo nhóm nhẹ - nặng, luyện kim đất hiếm siêu tinh khiết, công nghệ nam châm NdFeB thế hệ mới, vật liệu nền cho pin mặt trời perovskite hay linh kiện UAV. Các đề tài này không thiếu nhu cầu thị trường, nhưng lại thiếu cơ chế tài chính và doanh nghiệp sẵn sàng chia sẻ rủi ro.
Chuỗi giá trị còn thiếu
Bắc Nậm Xe là một ví dụ điển hình. Quy mô dự án 181,95 ha, tuổi thọ 30 năm, công suất hàng triệu tấn quặng nguyên khai/năm. Công ty TNHH Xây dựng Hưng Hải đã tìm được đối tác tiêu thụ là một doanh nghiệp được cho là duy nhất hiện nay sản xuất sản phẩm tinh khiết cao cho doanh nghiệp trong nước và xuất khẩu sang Nhật, Mỹ từ nguồn nhập khẩu Nga, Úc. Điều đáng nói: Việt Nam có quặng, nhưng nhà máy chế biến sâu đang phải dùng nguyên liệu nhập khẩu.
Bắc Nậm Xe đặt mục tiêu cung cấp nguyên liệu cho “nhà máy phía sau” nhưng bản thân dự án không xây dựng chuỗi khép kín. Giá trị gia tăng vì thế rơi vào khâu đứng sau, mà khâu này đang thiếu cơ chế ưu đãi, thiếu nhà đầu tư lớn, thiếu đơn đặt hàng từ ngành công nghiệp điện - điện tử.
Điểm tích cực là dự án đã xác định công nghệ tuyển phù hợp, có sơ đồ công nghệ rõ ràng, hợp tác với các viện chuyên ngành, chú ý kiểm soát môi trường, từ bụi phát sinh (gần 110.000 kg/năm), tiếng ồn, đến nước thải mỏ và bãi thải. Nhưng bài toán của quốc gia không nằm ở tuyển, lọc, mà ở việc tạo ra oxyt đất hiếm riêng rẽ, kim loại đất hiếm và vật liệu ứng dụng.
Nói cách khác: nếu không có nghiên cứu mạnh, Việt Nam sẽ mãi làm khâu đầu: tuyển quặng - khâu rẻ nhất.
Lo ngại lặp lại vòng xoáy cũ
Từ các dự án hiện hữu, có thể thấy ba khoảng trống cần lấp ngay. Một là, thiếu cơ chế hút doanh nghiệp công nghệ. Chuỗi đất hiếm chỉ có giá trị khi có nhà máy luyện oxyt, luyện kim và vật liệu tiếp nhận quặng tinh. Nếu chỉ bán quặng tinh, biên lợi nhuận thấp, rủi ro môi trường lớn, giá trị gia tăng lại nằm ở nơi khác.

Quặng đất hiếm lưu trữ tại 1 dự án ở Lào Cai. Ảnh: Báo Lào Cai
Hai là rủi ro môi trường quá lớn nếu chạy theo sản lượng. Báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án hiện trên Cổng Tham vấn môi trường (1) của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy lượng bụi, tiếng ồn, nguy cơ tác động đến nước mặt, nước ngầm và sức khỏe cộng đồng đều đáng kể. Các biện pháp kiểm soát có thể giảm thiểu, nhưng không thể xóa bỏ. Khi mở rộng công suất, rủi ro tăng theo cấp số nhân. Đây là bài học từ Trung Quốc trong thập niên 1990 - 2000: tăng sản lượng đất hiếm quá nhanh, có nơi phải trả giá bằng sự cố môi trường kéo dài.
Ba là, tránh lặp lại mô hình “xuất thô - nhập tinh”. Việc một doanh nghiệp đất hiếm của Việt Nam phải nhập nguyên liệu để sản xuất sản phẩm tinh khiết cao cho thấy khâu thượng nguồn chưa “nối” được với khâu hạ nguồn. Khi nào các viện nghiên cứu giải được bài toán luyện sâu, khi đó chuỗi cung ứng đất hiếm mới thật sự “made in Vietnam”.
Đất hiếm không tự biến thành nam châm hay pin mặt trời. Muốn có “đột phá”, Việt Nam cần thoát khỏi tư duy khai thác – tuyển – bán thô. Điều thị trường cần là vật liệu giá trị cao, còn điều viện, trường cần làm là công nghệ tách – luyện – chế tạo. Chỉ khi hai trục này gặp nhau, đất hiếm Việt Nam mới thật sự trở thành ngành công nghiệp, chứ không chỉ là câu chuyện trữ lượng.
(1) Tác giả có sử dụng một số thông tin trong các dự án đánh giá môi trường khi khai thác đất hiếm được đăng tải trên trang https://thamvan.mae.gov.vn.
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/dat-hiem-khong-the-dot-pha-neu-van-khai-thac-tho/











