Để những nghiên cứu khoa học ứng dụng vào thực tiễn - Bài 3: Gỡ khó trong nghiên cứu khoa học ở trường đại học

Nghiên cứu khoa học (NCKH) luôn được xem là linh hồn của đại học (ĐH) – nơi sản sinh ra tri thức, đổi mới và sáng tạo. Tuy nhiên, tại nhiều trường ĐH Việt Nam hiện nay, hoạt động NCKH vẫn còn gặp không ít trở ngại. Từ việc thiếu nguồn lực tài chính, nhân sự, cơ sở vật chất đến hạn chế về năng lực và động lực của người làm nghiên cứu, tất cả đang tạo nên một 'vòng luẩn quẩn' khiến khoa học trong nhà trường khó bứt phá.

Đầu tư “nhỏ giọt”, các trường gặp khó

Nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị quy định đảm bảo từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách cho khoa học - công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo và tăng dần lên theo các năm. Tuy nhiên, thống kê cho thấy tỷ lệ chi ngân sách cho KHCN trong các năm 2021 là 1,37%, 2022 là 1,72%, 2023 là 1,39% và năm 2024 là 1,97%, đều đạt tỷ lệ rất thấp so với GDP. Kết quả kiểm toán ghi nhận, dự toán chi ngân sách cho KHCN trung bình giai đoạn 2020-2022 là 17.494 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 1,01% tổng chi ngân sách nhà nước, đạt 0,2% GDP. Theo Kiểm toán Nhà nước, mức đầu tư cho KHCN của Việt Nam thấp hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới.

Sinh viên miệt mài nghiên cứu khoa học. Ảnh: Quang Vinh

Sinh viên miệt mài nghiên cứu khoa học. Ảnh: Quang Vinh

Điều đáng nói, dù kinh phí dành cho KHCN hạn chế như vậy nhưng nhiều đơn vị nghiên cứu không thể tiêu hết ngân sách, phải hủy dự toán, thậm chí phải trả lại một phần hoặc chuyển nguồn ngân sách sang năm sau. Nguyên nhân của tình trạng này phần lớn xuất phát từ các thủ tục hành chính phức tạp trong quá trình giải ngân, khiến các nhà khoa học phải đối mặt không ít khó khăn.

Thống kê tại Trường ĐH Y Dược Thái Bình, năm 2024 trường có 41 công bố WoS và Scops trên tổng số 395 giảng viên. Đây cũng là cơ sở giáo dục ĐH giữ vị trí 57 trong bảng xếp hạng 2024 của SARAP về thành tựu bài báo nghiên cứu của các cơ sở giáo dục ĐH Việt Nam năm 2024. Trong khi đó, theo chuẩn cơ sở giáo dục ĐH được quy định tại Thông tư 01 năm 2024 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT), số lượng công bố KHCN tính bình quân trên một giảng viên toàn thời gian không thấp hơn 0,3 bài/năm; riêng đối với cơ sở giáo dục ĐH có đào tạo tiến sĩ không phải trường đào tạo ngành đặc thù, không thấp hơn 0,6 bài/năm, trong đó số bài có trong danh mục WoS hoặc Scopus (có tính trọng số theo lĩnh vực) không thấp hơn 0,3 bài/năm.

Chia sẻ về khó khăn khi thực hiện các đề tài KHCN, đại diện Trường ĐH Y Dược Thái Bình cho biết, hiện trường có 2 nhiệm vụ cấp quốc gia, 1 nhiệm vụ cấp Bộ Y tế nhưng đến nay do việc sáp nhập các Bộ, ngành và thay đổi cơ chế chính sách nên sau 2 năm vẫn chưa có kết quả cụ thể. Trong khi đó, nguồn kinh phí chi cho đề tài cấp tỉnh khối ngành Y Dược khá hạn chế. Dù hàng năm trường có nhiều ý tưởng đăng ký cấp tỉnh nhưng được duyệt rất ít, chỉ khoảng 2-3 đề tài/ năm và kinh phí cho mỗi đề tài dao động từ 400-700 triệu đồng.

Đây cũng là thực trạng được Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng chỉ ra: “Đến nay, có những địa phương không bố trí vốn hoặc rất thấp cho phát triển KHCN”. Thứ trưởng Bộ GDĐT GS.TS Lê Quân, nguyên Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội nhìn nhận, kinh phí dành cho các đề tài khoa học đang rất dàn trải và manh mún. Ông lấy ví dụ kinh phí KHCN được rót về ĐH Quốc gia Hà Nội năm 2024 khoảng 70 tỷ đồng. Với gần 2.500 nhà khoa học, trong đó 72 giáo sư, 482 phó giáo sư, sau khi trừ một số khoản chi thường xuyên, trung bình mỗi người nhận khoảng 50 triệu đồng để nghiên cứu. Một số ý kiến chỉ ra rằng với mức hỗ trợ này không đủ để đăng một bài trên các tạp chí khoa học danh tiếng của thế giới.

Điều đáng lưu tâm là chỉ chưa đầy 2 tháng sau khi Nghị quyết số 57/NQ-TW được ban hành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 193/2025/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Theo đó, cho phép cơ chế khoán từng phần và đánh giá theo sản phẩm đầu ra thay vì ràng buộc chặt chẽ theo tiến độ, danh mục mua sắm như trước. Quy định này đã trao thêm quyền chủ động cho đơn vị chủ trì trong việc điều chỉnh nội dung và vật tư cần thiết trong quá trình triển khai đề tài khiến, giúp thuận lợi cho nhà khoa học rất nhiều.

Số liệu thống kê của Bộ GDĐT cho thấy tỷ lệ sinh viên tham gia NCKH chiếm 30-35% trong tổng số sinh viên ở các trường ĐH, tập trung chủ yếu là sinh viên năm thứ ba trở đi. Dù vậy, khi tham gia NCKH, sinh viên sẽ phải đối mặt với những khó khăn như thiếu kỹ năng tìm kiếm và quản lý tài liệu, chọn đề tài không phù hợp, kỹ năng làm việc nhóm hạn chế, ít kinh nghiệm thực tế. Một số sinh viên cũng thụ động trong việc tham gia, đề tài chưa có tính mới và khả năng ứng dụng.

Nỗi sợ mang tên “thủ tục hành chính”

PGS.TS Nguyễn Hải Đăng - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội chia sẻ một trong những rào cản đối với hoạt động KHCN liên quan đến việc đấu thầu, mua sắm công. Đơn cử, khi mua sắm hóa chất phục vụ nghiên cứu phải thông qua đấu thầu với thủ tục rất phức tạp. Điều này khiến nhà khoa học mất nhiều thời gian, công sức để giải quyết, không tập trung được cho NCKH.

Theo quy định tại Thông tư 20/2020/TT-BGDĐT, giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học, tương đương 586 giờ hành chính để làm nhiệm vụ NCKH. Khảo sát của nhà giáo Trần Thị Mỹ Tuyết và Nguyễn Hoàng Mỹ Thuyên (Trường CĐ Y tế Khánh Hòa) về rào cản thực hiện NCKH đối với các nhà giáo lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp y tế cho thấy: Công tác chuyên môn như giảng dạy, các công việc hành chính như làm báo cáo, tuyển sinh và các công việc phát sinh trong tháng không theo kế hoạch... đã chiếm phần lớn thời gian và năng lượng của giảng viên. Đây là một trong những nguyên nhân khiến giảng viên chưa dành quan tâm nhiều thời gian cho công việc nghiên cứu.

Sinh viên Đại học Phenikaa trong phòng thí nghiệm. Ảnh: NTCC

Sinh viên Đại học Phenikaa trong phòng thí nghiệm. Ảnh: NTCC

Một nguyên nhân khác xuất phát từ quy định về định mức NCKH quy đổi giờ chuẩn thấp khiến nhà giáo có thể thực hiện công việc chuyên môn khác là đáp ứng đủ giờ khoán quy định năm học mà không phải thực hiện NCKH nên lâu dần, kỹ năng làm nghiên cứu bị hạn chế. Bên cạnh đó, kinh phí hỗ trợ đề tài tại đơn vị hạn hẹp, các nhà giáo không đủ chi trả cá nhân cho triển khai thực hiện đề tài, từ đó giảm dần nhiệt huyết và từ bỏ làm NCKH. Nghiên cứu cũng chỉ ra các trường chủ yếu tập trung công tác đào tạo, giảng dạy hơn là đầu tư đẩy mạnh hoạt động NCKH.

Rào cản từ đội ngũ, môi trường nghiên cứu

Để ĐH trở thành trung tâm NCKH, đổi mới sáng tạo, theo GS.TS Chử Đức Trình, Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ, ĐH Quốc gia Hà Nội đòi hỏi một cơ chế quản lý thông thoáng. Cần có cơ chế đầu tư bài bản cho các nhóm nghiên cứu mạnh, dẫn dắt các hoạt động nghiên cứu, có những ý tưởng, công trình khoa học mang tính đột phá, đóng góp vào sự phát triển chung của KHCN nước nhà.

Hội nghị Sinh viên nghiên cứu khoa học 2025 do ĐH Bách khoa Hà Nội tổ chức. Ảnh: HUST.

Hội nghị Sinh viên nghiên cứu khoa học 2025 do ĐH Bách khoa Hà Nội tổ chức. Ảnh: HUST.

Bài toán đội ngũ đang là một vấn đề đối với nhiều cơ sở giáo dục ĐH Việt Nam khi thiếu các nhà khoa học đầu ngành có uy tín quốc tế, có khả năng dẫn dắt nhóm nghiên cứu mạnh. Ngay cả đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm và đam mê nghiên cứu không phải trường nào cũng có. Phần lớn trình độ năng lực chuyên môn và kinh nghiệm nghiên cứu giữa các giảng viên, cán bộ khoa học của các trường chưa đồng đều. Khó khăn về cơ sở vật chất và trang thiết bị nghiên cứu dù đã được đầu tư vẫn chưa đồng bộ và hiện đại, chưa đáp ứng yêu cầu của các nghiên cứu công nghệ cao hoặc liên ngành. Việc bảo trì, duy tu và nâng cấp thiết bị lại gặp nhiều khó khăn về cả kỹ thuật lẫn tài chính.

Đặc biệt, đối với một số lĩnh vực KHCN mới, tình trạng thiếu nhân lực chuyên sâu là một thách thức lớn. Đơn cử, trong lĩnh vực bán dẫn, công nghệ đóng gói và mạch tích hợp, mỗi năm, Việt Nam chỉ có thêm khoảng 2-3 giáo sư trong khi ở nhiều trường ĐH nước ngoài, con số đó thường cao gấp nhiều lần. Đây là bài toán chung của cả nước, khi số giảng viên và nhà khoa học đạt chuẩn quốc tế còn khiêm tốn. Song để thu hút người tài, ngoài chế độ đãi ngộ thì vấn đề chính sách và môi trường làm việc chưa thực sự thuận lợi cho sự phát triển bền vững của hoạt động khoa học cũng đang là một rào cản. Theo các chuyên gia, để hình thành và duy trì một nhóm nghiên cứu mạnh, cần nguồn kinh phí ổn định và liên tục trong ít nhất 3-5 năm, nhưng với nhiều cơ sở giáo dục ĐH ở Việt Nam, điều này hiện chưa thật sự được đảm bảo.

(còn nữa)

Khó khăn trong việc lựa chọn và định hình đề tài phù hợp năng lực và tính mới diễn ra không chỉ với sinh viên mà với cả các giảng viên, nhà khoa học. Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước giai đoạn 2020-2022 nêu thực tế có một số nội dung nghiên cứu giống nhau giữa các đề tài, dự án mà chưa có tính kế thừa phần nào gây lãng phí nguồn lực ngân sách nhà nước vốn đã rất hạn hẹp dành cho NCKH.

Thu Hương

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/de-nhung-nghien-cuu-khoa-hoc-ung-dung-vao-thuc-tien-bai-3-go-kho-trong-nghien-cuu-khoa-hoc-o-truong-dai-hoc.html