Độc đáo lễ cúng Giang Sơn của người Chứt
Lễ cúng Giang Sơn là nét văn hóa đặc trưng truyền đời của người Chứt, ẩn chứa những sắc thái rất riêng, mang nét bí ẩn chưa được khám phá. Với họ, đó không chỉ mang ý nghĩa tâm linh chứa đựng các giá trị về nguồn cội mà còn thể hiện tinh thần đoàn kết trong cộng đồng, giáo dục các thế hệ con cháu giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống.
Dân tộc Chứt (gồm các tộc người Mày, Sách, Rục, Mã Liềng, A Rem) sống rải rác ở các bản làng biên giới huyện Minh Hóa. Lễ cúng Giang Sơn của mỗi tộc người Chứt có thể khác nhau vào thời điểm trong năm hay cách thể hiện nhưng tựu chung đều mang đậm chất sơ khai, huyền bí của người bản địa. Theo quan niệm của họ, đây là dịp để tưởng nhớ tổ tiên, tạ ơn trời đất, thần rừng… đã che chở dân bản bình yên, no ấm.
"Mật ngữ" truyền đời
Lễ cúng Giang Sơn, một trong những lễ có thể nói là bắt buộc phải thực hiện hàng năm của người Chứt sống dưới chân núi Giăng Màn thuộc xã Trọng Hóa, Dân Hóa. Những người già lớn tuổi nhất ở các bản làng của người Mày, người Sách cũng không nhớ rõ lễ cúng có từ khi nào.
Cũng như nhiều dân tộc thiểu số khác, người Chứt có tiếng nói nhưng không có chữ viết. Cũng bởi vậy, các phong tục, lễ nghi của họ chủ yếu truyền miệng, “xưa bày nay làm” qua các thế hệ. Lễ cúng Giang Sơn cũng là tên gọi có từ sau này, còn trước đây ý nghĩa thực chất cũng giống như lễ cầu an, cầu yên của người miền xuôi.
Theo nhiều già làng, trước đây, lễ cúng được tổ chức 2 lần trong năm, một dịp vào đầu năm, khoảng tháng 3 (âm lịch) để cầu bình an và xin các vị thổ thần phù hộ cho dân bản vào mùa nương rẫy mới tươi tốt, được mùa. Dân bản thường gọi là lễ “mở đất”. Dịp còn lại vào khoảng tháng 10 (âm lịch) là để trả lễ, cảm ơn các đấng bề trên và được gọi là lễ “đóng đất”.
Lễ vật cho mỗi lễ cúng chủ yếu đóng góp từ dân bản, gồm: Lợn, gà, nếp rẫy, hoa chuối… Cứ vài bản cùng chung tiếng nói ở gần nhau sẽ cùng gộp chung lễ vật để làm lễ cúng. Mâm cúng chia làm 2 tầng, tầng trên kính thổ thần còn tầng dưới cho tổ tiên và những người đã khuất luôn phù hộ cho dân bản.
Với người Mày, người Sách lễ vật khá đơn giản và tùy theo điều kiện từng năm nhưng điều quan trọng nhất là địa điểm đặt lễ và thầy cúng. Địa điểm bày lễ thường được lựa chọn tại một điểm cố định, truyền từ nhiều đời trước và hướng về cửa rừng. Thầy cúng thường là những người có uy tín trong bản, thuộc các bài cúng được truyền trực hệ từ đời này qua đời khác. Sau mỗi bài cúng, thầy cúng sẽ gõ 3 tiếng chiêng để gửi gắm ý niệm tới các đấng bề trên.
Già Hồ Tót là thầy cúng của người Mày tại bản Dộ-Tà Vờng, xã Trọng Hóa nhiều năm nay. Ông được thế hệ trước chọn và truyền lại các bài cúng trong các dịp đại sự của bà con, nhất là lễ cúng Giang Sơn. Khi cha của ông mất thì ông mới được phép nối nghiệp, còn trước đó chỉ được đứng chầu và học tập. Sau này, khi già yếu ông sẽ lại chọn một con cháu để truyền lại.
Theo già Hồ Tót, các bài văn cúng trong lễ cực kỳ quan trọng bởi mỗi khu đất, khu rừng, con suối đều có những vị thần linh ngự trị. Nếu khi cúng khấn mà đọc thiếu tên của những vị thần linh thì năm đó người dân trong bản sẽ gặp bất lợi ở những nơi “quên” xin phép. Những bài cúng, mỗi thế hệ người Mày trong bản chỉ truyền cho một người.
Tẩy trần trước khi vào lễ
Được phát hiện từ giữa thế kỷ XX, tộc người Rục, xã Thượng Hóa (Minh Hóa) được xem như là “người em út” và cũng là tộc người bí ẩn nhất trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cũng có người nói, người Rục “không nhớ quá khứ” bởi trước khi được đón về định cư ở 3 bản: Ón, Mò O Ồ Ồ và Yên Hợp, người Rục chủ yếu sống ẩn dật, hoang sơ trong các hang đá giữa núi sâu, rừng rậm.
Những người Rục lớn tuổi cũng không nhớ lễ cúng Giang Sơn có từ khi nào nhưng thường được tổ chức vào dịp rằm tháng giêng nhằm cầu các vị thần linh xua đuổi toàn bộ những điều rủi ro, dịch bệnh và cầu mong nhận về những điều may mắn, tốt lành cho dân bản. Trước đây, lễ được tổ chức 3 năm một lần do điều kiện bà con còn khó khăn. Những năm gần đây, lễ được tổ chức hàng năm tại bản Ón.
Để chuẩn bị cho lễ, từ chiều hôm trước, dân bản đã trữ củi và nhóm bếp đốt lửa cháy liên tục đến ngày hôm sau. Lễ vật cũng là những vật nuôi, nếp gạo, rau rừng thường nhật của bà con góp lại. Những năm khấm khá thì mổ heo còn không thì dùng gà làm lễ cúng. Theo quan niệm của người Rục, trước khi vào lễ cúng, người tham gia phải được tẩy trần sạch sẽ để đánh bay mọi tội lỗi, uế tạp. Nếu không được “làm sạch thân thể” trước khi bước vào lễ cầu an, các vị thần linh sẽ không chấp nhận để ban phát những điều may mắn, tốt lành.
Hiện nay, dân tộc Chứt ở Quảng Bình có khoảng gần 1.900 hộ với hơn 7.800 nhân khẩu. Lễ cúng Giang Sơn của người Chứt được Sở Văn hóa-Thể thao hỗ trợ phục dựng, bảo tồn thuộc Dự án 6 “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025.
Ông Cao Ngọc Đoan (58 tuổi), ở bản Ón cho hay, để thanh tẩy cho người dự lễ, những người có uy tín trong bản sẽ vào rừng chọn 7 viên đá lèn “đặc biệt” cùng với bó lá rừng mà dân bản thường gọi là Tri ang Cà panh. 7 viên đá lèn được rửa sạch, nung đỏ trong bếp lửa rồi thả vào những nồi nước ngâm lá Tri ang Cà panh đặt ngay trước cổng vào làm lễ. Hơi nước bốc lên tỏa ra mùi thơm đặc trưng của lá cây và chờ nước nguội thì chủ lễ sẽ vẩy lên từng người để tẩy trần trước khi vào lễ cúng. Cũng theo ông Đoan, đây là thủ tục bắt buộc, ai không “làm phép” sạch thân thể sẽ không được vào dự lễ.
Người chủ lễ thường là những già làng cao tuổi nhất, có kinh nghiệm và thông thuộc địa lý các khu vực khe suối, núi rừng xung quanh các bản làng người Rục. Các bài cúng bằng tiếng Rục thể hiện sự biết ơn với tổ tiên, các vị thần linh đã chở che, phù hộ và cúng tiễn các vong linh không có ai thờ cúng, vì đó mà thường xuyên phá hoại, gây tai ương cho dân bản.
Trong lễ cúng, trước đây, già làng thường dùng 2 miếng gỗ ngắn (có hai mặt) ném vào con dao đi rừng để xin keo sấp ngửa, còn hiện nay dùng 2 đồng xu có mặt âm dương. Sau khi được các vị thổ thần chấp thuận, bà con dân bản cùng ngồi lại bên bếp lửa hồng, ăn uống, ca hát và kỳ vọng năm mới mưa thuận gió hòa, nhà nhà an yên, việc đi rừng suôn sẻ…
Có lẽ, với cuộc sống từ xa xưa luôn gắn liền với mẹ thiên nhiên nên trong tâm thức của người Chứt luôn sùng bái các vị thần linh. Lễ cúng Giang Sơn là cách để họ thể hiện tín niệm đó nên không chỉ mang ý nghĩa tâm linh mà còn chứa đựng các giá trị về nguồn cội, là mạch nguồn văn hóa. Việc bảo tồn và phát huy những đặc trưng văn hóa của người Chứt sẽ góp phần gìn giữ, làm phong phú, đa dạng hơn bức tranh văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam.