Đổi mới tư duy, tránh quản lý quá thận trọng
Thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số, tại Hội nghị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) hoạt động chuyên trách lần thứ 7, một số ĐBQH cho rằng, dự thảo Luật cần cụ thể hóa đầy đủ Nghị quyết số 57 – NQ/TW của Bộ Chính trị, nhất là yêu cầu đổi mới tư duy quản lý, tránh tư duy 'không quản được thì cấm', mở đường cho công nghệ mới qua cơ chế thử nghiệm có kiểm soát. Bởi, nếu quản lý quá thận trọng sẽ kìm hãm đổi mới sáng tạo, khiến doanh nghiệp e ngại thử nghiệm công nghệ mới tại nước ta.
Mở rộng phạm vi áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát
Thảo luận về dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số, các đại biểu tán thành sự cần thiết ban hành luật. Đây là dự án luật có ý nghĩa quan trọng để thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Luật này được ban hành sẽ tạo nền tảng pháp lý vững chắc, đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống, thúc đẩy công nghiệp công nghệ số trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan điều hành thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số
Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị yêu cầu đổi mới tư duy quản lý, tránh tư duy "không quản được thì cấm", mở đường cho công nghệ mới qua cơ chế thí điểm có kiểm soát. Đối chiếu với tinh thần này của Nghị quyết số 57, ĐBQH Trần Văn Khải (Hà Nam) nhận thấy, dự thảo Luật đã có bước tiến với quy định cơ chế thử nghiệm (Chương V) nhưng phạm vi thử nghiệm còn quá hẹp (Điều 42), bỏ sót nhiều đổi mới sáng tạo; đồng thời liệt kê nhiều hành vi bị cấm rất chung chung (Điều 12) và đặt thêm một số điều kiện kinh doanh.
Cho rằng “cách quản lý quá thận trọng này sẽ kìm hãm đổi mới sáng tạo, khiến doanh nghiệp e ngại thử nghiệm công nghệ mới tại Việt Nam”, đại biểu Trần Văn Khải đề nghị, mở rộng phạm vi áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) cho mọi sản phẩm, dịch vụ công nghệ số mới chưa được pháp luật điều chỉnh; đơn giản hóa thủ tục phê duyệt thử nghiệm; lược bỏ các quy định cấm, điều kiện không thực sự cần thiết; trao quyền cho Chính phủ tạm thời cho phép thí điểm những công nghệ, mô hình mới chưa có luật điều chỉnh.
Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng coi dữ liệu số là tài nguyên chiến lược, đòi hỏi "đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính" và phát triển kinh tế dữ liệu. Tuy nhiên, theo đại biểu Trần Văn Khải, dự thảo Luật chưa thể hiện rõ chủ trương này, các quy định chủ yếu về quản lý kỹ thuật, chưa có cơ chế chia sẻ, khai thác hiệu quả, cũng như chưa có điều khoản nào thúc đẩy việc mở dữ liệu công hoặc phát triển thị trường dữ liệu.
“Cách tiếp cận thận trọng này dẫn đến "mỏ vàng dữ liệu" chưa được khai thác, doanh nghiệp thiếu nguyên liệu phát triển trí tuệ nhân tạo, làm giảm sức cạnh tranh”. Lưu ý vấn đề này, đại biểu Trần Văn Khải đề nghị, cần bổ sung các quy định thúc đẩy kinh tế dữ liệu. Trong đó, quy định rõ nguyên tắc "dữ liệu mở" và chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp; hình thành các trung tâm, sàn giao dịch dữ liệu; đồng thời, giao Chính phủ quy định danh mục dữ liệu mở và cơ chế bảo đảm an toàn, quyền riêng tư khi chia sẻ dữ liệu, qua đó tạo động lực cho công nghiệp dữ liệu phát triển đúng tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW.
Bên cạnh yêu cầu đổi mới tư duy quản lý, một số ĐBQH cũng đề nghị, Ban soạn thảo nghiên cứu thêm, tham khảo, đối chiếu các chính sách về công nghiệp hỗ trợ như các chương trình công nghiệp hỗ trợ quốc gia do Thủ tướng Chính phủ đã ban hành, các thông tư của Bộ Tài chính về hướng dẫn mức hỗ trợ công nghiệp… để đưa ra những chính sách hỗ trợ mang tính chất đột phá cho công nghiệp công nghệ số.

Đại biểu Nguyễn Thị Thu Nguyệt (Đắk Lắk) phát biểu. Ảnh: Lâm Hiển
ĐBQH Nguyễn Thị Thu Nguyệt (Đắk Lắk) nhấn mạnh, các chính sách hỗ trợ công nghiệp công nghệ số tại dự thảo Luật sẽ là cơ sở để các địa phương xây dựng chính sách hỗ trợ công nghệ số mang tính chất vượt trội, mang tính dẫn dắt so với các chính sách hỗ trợ khác tại mỗi địa phương.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đại biểu Nguyễn Thị Thu Nguyệt lưu ý, các doanh nghiệp cần sự rõ ràng, minh bạch về chính sách ưu đãi để quyết định đầu tư lâu dài và cam kết với thị trường Việt Nam. “Những ưu đãi này sẽ thúc đẩy cho sự phát triển mạnh mẽ hơn vào nước ta, thúc đẩy sự phát triển của khu công nghệ số, công nghiệp số tại Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi để cho sự phát triển một cách toàn diện”.
Phân loại tài sản số để quản lý phù hợp
Tại dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số đã dành một chương riêng với hai Điều 57 và 58 quy định về tài sản số. Theo quy định tại khoản 1, Điều 57, tài sản số là tài sản theo quy định tại Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử.
Theo quy định tại dự thảo Luật, tài sản số được phân loại theo mục đích sử dụng, công nghệ và tiêu chí khác. Thẩm quyền, quản lý đối với tài sản số, tài sản ảo trên môi trường điện tử, tài sản mã hóa trong lĩnh vực chuyên ngành được thực hiện theo quy định của Chính phủ phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Lâm Hiển
Về nội dung này, ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) đề nghị, quy định về tài sản số tại khoản 1 Điều 57 cần được bổ sung cụm từ "có tính độc nhất hoặc có thể thay thế" sau cụm từ "được thể hiện dưới dạng dữ liệu số". Bởi lẽ tính độc nhất hoặc có thể thay thế là một tính chất quan trọng của tài sản số, ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản số đó được sử dụng giao dịch và định giá. Trong đó, tính độc nhất tạo ra sự khan hiếm và giá trị riêng biệt cho từng loại tài sản, cho phép đại diện cho quyền sở hữu của các vật phẩm hoặc tài sản duy nhất cả trong thế giới thực và kỹ thuật số. Tính có thể thay thế cho phép dễ dàng trao đổi và sử dụng tài sản như một đơn vị tiền tệ để tạo ra tính thanh khoản cao và thúc đẩy các giao dịch thương mại là nền tảng cho các ứng dụng tài chính phi tập trung.
Cho ý kiến về nội dung này, ĐBQH Phạm Trọng Nghĩa (Lạng Sơn) nhất trí với việc phân chia tài sản số theo 3 tiêu chí được quy định tại dự thảo Luật; trên cơ sở đó đưa ra biện pháp quản lý phù hợp. Song, đại biểu cũng lưu ý, quản lý tài sản ảo là vấn đề pháp lý mới, khó và phức tạp, là vấn đề xuyên quốc gia. Do vậy, Ban soạn thảo cần bổ sung Báo cáo kinh nghiệm quốc tế để các ĐBQH tham khảo khi xem xét thông qua dự án Luật tại Kỳ họp thứ Chín tới đây.

Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa (Lạng Sơn) phát biểu. Ảnh: Lâm Hiển
Về trí tuệ nhân tạo, Điều 53 dự thảo Luật quy định 4 loại hệ thống trí tuệ nhân tạo gồm rủi ro cao, không rủi ro cao, tác động lớn và trí tuệ nhân tạo khác. Với cách quy định này tại dự thảo Luật, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa nhận thấy, hệ thống trí tuệ nhân tạo vừa được phân chia theo tiêu chí, mức độ rủi ro vừa được phân chia theo tiêu chí tác động lớn. Do đó, việc phân chia cần được xác định theo một tiêu chí để từ đó có biện pháp quản lý phù hợp hơn.
Đồng thời, ĐBQH Phạm Trọng Nghĩa cũng đề nghị tham khảo cách thức phân chia theo 4 mức độ rủi ro trong đạo luật về trí tuệ nhân tạo năm 2024 của Liên minh châu Âu để hoàn thiện dự án luật. Đó là mức 1: rủi ro không thể chấp nhận là cấm hoàn toàn, mức 2: rủi ro cao là quy định nghiêm ngặt, mức 3: rủi ro hạn chế là yêu cầu minh bạch và mức 4: rủi ro thấp thì cho tự do phát triển.
Phát biểu giải trình các ý kiến tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định, Luật Công nghiệp công nghệ số là một luật mới rất khó, chưa có nhiều kinh nghiệm quốc tế. Do đó, Cơ quan soạn thảo sẽ nghiên cứu kỹ và tiếp thu tối đa để hoàn thiện dự thảo Luật. Về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, có thể tiếp cận theo hướng tập trung nhưng linh hoạt là có một luật ra các nguyên tắc về sandbox, rồi giao Chính phủ ban hành nghị định khung, sau đó các bộ, ngành, địa phương ban hành hướng dẫn về tiến hành thử nghiệm có kiểm soát trong ngành và địa phương mình để tránh nhiều luật hiện nay cùng có quy định về thực hiện cơ chế thử nghiệm này.