Đưa thị trường trái phiếu tăng tốc, giải 'cơn khát' vốn cho giai đoạn tới

Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), trong 5 năm tới, nền kinh tế Việt Nam cần bổ sung khoảng 250 - 350 tỷ USD vốn đầu tư, mở ra dư địa lớn huy động vốn qua thị trường trái phiếu. Yêu cầu then chốt là mở rộng cơ sở nhà đầu tư tổ chức có tiềm lực, phát triển các sản phẩm trái phiếu kỳ hạn dài tới 10 năm, cùng nâng hạng tín nhiệm quốc gia để vươn ra thị trường vốn quốc tế.

Nhu cầu vốn tăng tốc khi tăng trưởng GDP vượt 10%

Chia sẻ tại Hội thảo "Đa dạng vốn cho phát triển bền vững" do Báo Tài chính - Đầu tư vừa tổ chức, bà Phạm Thị Thanh Tâm - Phó Vụ trưởng Vụ Các định chế tài chính (Bộ Tài chính) cho biết, tính đến tháng 10/2025, quy mô dư nợ trái phiếu doanh nghiệp xanh xấp xỉ 1 tỷ USD. Đây là con số rất ấn tượng, bởi thị trường này hình thành và phát triển muộn hơn.

"Song song với sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh, Bộ Tài chính đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan để xây dựng đề án thí điểm phát hành trái phiếu Chính phủ xanh, với kỳ vọng đề án này sẽ sớm được trình Thủ tướng Chính phủ trong năm 2026 để tổ chức triển khai thực hiện" - bà Tâm thông tin thêm.

Giai đoạn 2026 - 2030, nhu cầu huy động vốn đầu tư phát triển nền kinh tế dự kiến tăng gấp đôi so với giai đoạn 2021 - 2025. Ảnh: TL

Giai đoạn 2026 - 2030, nhu cầu huy động vốn đầu tư phát triển nền kinh tế dự kiến tăng gấp đôi so với giai đoạn 2021 - 2025. Ảnh: TL

Theo bà Phạm Thị Thanh Tâm, giai đoạn 2026 - 2030, nhu cầu huy động vốn đầu tư phát triển nền kinh tế, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, dự kiến tăng gấp đôi so với giai đoạn 2021 - 2025. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội lớn để huy động vốn qua thị trường trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Dự báo nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng rất mạnh, ông Nguyễn Bá Hùng - Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam phân tích, trước đây, tỷ lệ đầu tư công khoảng 6% GDP/năm; bước sang giai đoạn 2026 - 2030 dự kiến tăng lên 8% GDP, song quy mô tuyệt đối ước tăng thêm 50 - 70 tỷ USD.

"Thị trường trái phiếu hiện nay chủ yếu vẫn cung cấp nguồn vốn ngắn đến trung hạn, nhưng các nguồn vốn dài hạn trên 10 năm hầu như chưa có. Đây là một hạn chế của thị trường trái phiếu Việt Nam. Trong thời gian tới, lĩnh vực này cần được phát triển rất mạnh, bởi về lâu dài, đây chính là kênh cung cấp vốn dài hạn và ổn định nhất cho doanh nghiệp".

Ông Nguyễn Bá Hùng - Kinh tế trưởng ADB

Cùng với đó, đầu tư toàn xã hội dự kiến tăng từ mức khoảng 32% GDP lên 40% GDP, tương ứng với nhu cầu vốn bổ sung khoảng 250 - 350 tỷ USD trong 5 năm tới.

Cũng theo Kinh tế trưởng ADB, theo kế hoạch tài chính giai đoạn 2026 - 2030, chi đầu tư dự kiến tăng 136%, trong khi chi thường xuyên tăng 28%.

Nhu cầu vốn đầu tư tăng tốc trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng khoảng 10%/năm từ năm 2026 trở đi. So sánh với tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 30 năm qua của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, ông Hùng cho rằng, đây là mục tiêu đầy tham vọng. Trong 30 năm qua, chỉ có Trung Quốc duy trì được tốc độ tăng trưởng trên 10%, trong khi các “con hổ châu Á” như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan đạt mức cao nhất khoảng trên 9%. Điều này đặt ra yêu cầu cao về nguồn lực và cách thức huy động vốn.

Giải bài toán huy động vốn trung và dài hạn cho phát triển

Vấn đề đặt ra là trong bối cảnh này, làm thế nào để huy động được nguồn vốn đáp ứng nhu cầu phát triển.

So sánh với kinh nghiệm quốc tế, ông Nguyễn Bá Hùng cho biết, hiện dư nợ trái phiếu Chính phủ Việt Nam khoảng 20% GDP, thấp hơn đáng kể so với nhiều nước trong khu vực, cho thấy còn nhiều dư địa mở rộng. Ngoài ra, tỷ lệ nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trái phiếu Chính phủ gần như bằng 0, trong khi tại nhiều quốc gia trong khu vực, con số này có thể lên tới khoảng 20%.

Việc nhà đầu tư nước ngoài mua trái phiếu Chính phủ bằng đồng nội tệ hiện vẫn chưa thực hiện được ở Việt Nam, dù kinh nghiệm quốc tế cho thấy điều này hoàn toàn khả thi và cần được nghiên cứu, thúc đẩy thời gian tới.

Với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, theo ông Hùng, quy mô tại nhiều nước ASEAN vẫn dưới 1.000 tỷ USD, trong khi Trung Quốc và Hàn Quốc cao hơn đáng kể. Điều này cho thấy, thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam còn nhiều dư địa phát triển.

Trước nhu cầu vốn gia tăng giai đoạn tới, lãnh đạo Vụ Các định chế tài chính cũng thẳng thắn chỉ rõ hạn chế lớn của thị trường vốn và thị trường trái phiếu là cơ sở nhà đầu tư còn mỏng, thiếu vắng các nhà đầu tư tổ chức có tiềm lực tài chính mạnh và nguồn vốn dài hạn.

Theo bà Phạm Thị Thanh Tâm, với trái phiếu Chính phủ, nhà đầu tư chủ yếu là các tổ chức tài chính phi ngân hàng như: bảo hiểm xã hội, các doanh nghiệp bảo hiểm, các quỹ đầu tư và các ngân hàng thương mại. Trong năm 2025, khối lượng huy động vốn trái phiếu Chính phủ theo kế hoạch được đặt ra ở mức cao hơn so với các năm trước, song hiện đạt trên 60% kế hoạch.

"Ngân hàng thương mại từ xưa đến nay vẫn là nhà đầu tư chủ chốt trên thị trường trái phiếu Chính phủ, nhưng trong năm 2025, các ngân hàng tập trung nguồn vốn cho tăng trưởng tín dụng, khiến lượng vốn nhàn rỗi dành cho đầu tư vào trái phiếu Chính phủ bị hạn chế" - đại diện Bộ Tài chính bày tỏ.

Từ thực tế đó, bài toán đặt ra để thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu nói chung và thị trường trái phiếu xanh nói riêng trong thời gian tới là phải phát triển cơ sở nhà đầu tư, coi đây là yêu cầu then chốt và có ý nghĩa quyết định.

Lãnh đạo Vụ Các định chế tài chính cho biết, Bộ Tài chính đang phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để triển khai nhiệm vụ này, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của nhiều bộ, ngành liên quan.

Nâng hạng tín nhiệm quốc gia giúp hạ giá vốn, hướng ra "biển lớn"

Ông Trần Lê Minh - Tổng Giám đốc VIS Rating cho biết, nếu Chính phủ Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, lãi suất phải trả sẽ cao hơn khoảng 4,02% so với lãi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm. Trong khi đó, một số quốc gia trong khu vực có xếp hạng tín nhiệm quốc tế tốt hơn, như Thái Lan chỉ phải trả mức phần bù rủi ro khoảng 1,93%. Theo ông Minh, nếu Việt Nam nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, không chỉ Chính phủ, mà cả doanh nghiệp khi huy động vốn từ thị trường quốc tế có thể tiết kiệm lãi suất 1,1 - 2%/năm.

Với trái phiếu xanh, Tổng Giám đốc VIS Rating thẳng thắn nhìn nhận, thực tế các tổ chức phát hành hầu như không được hưởng lợi ích tài chính trực tiếp so với việc phát hành trái phiếu thông thường, xét trên phương diện lãi suất phải chi trả.

Quan sát các dự án hợp tác công - tư (PPP) trên thế giới, ông Minh cho biết, trong giai đoạn đầu tư, thường kéo dài khoảng 3 - 5 năm, các dự án này chủ yếu sử dụng vốn ngân hàng do khả năng huy động nhanh. Tuy nhiên, khi dự án gần hoàn thành và bắt đầu hình thành dòng tiền, phần vốn vay ngân hàng sẽ được hoàn trả và phát hành trái phiếu dài hạn có thể kéo dài 10 năm hoặc thậm chí 20 năm, tồn tại song song với quá trình hoàn vốn của dự án.

"Vì vậy, việc phát hành trái phiếu dài hạn, từng bước phát hành ra thị trường quốc tế, gần như là con đường chắc chắn các doanh nghiệp phải đi" - Tổng Giám đốc VIS Rating nhấn mạnh.

Ánh Tuyết

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/dua-thi-truong-trai-phieu-tang-toc-giai-con-khat-von-cho-giai-doan-toi-188915-188915.html