Giáo sư Nguyễn Thiện Nhân: Luật Dân số 2025 sẽ quyết định tương lai của đất nước 50 năm và 100 năm tới
Đại biểu Nguyễn Thiện Nhân (Đoàn TP Hồ Chí Minh) cho rằng, Luật Dân số 2025 sẽ quyết định tương lai của đất nước 50 năm và 100 năm tới.

Ông Nguyễn Thiện Nhân phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)
Ngày 10/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về: Dự án Luật Dân số; Dự án Luật Phòng bệnh. Giáo sư, đại biểu Nguyễn Thiện Nhân (Đoàn TP Hồ Chí Minh) đã đưa ra 2 nhận định. Theo đó, nhận định thứ nhất từ thực tế và bài học 50 năm phát triển của Nhật Bản trong giai đoạn 1975- 2025, thách thức lớn nhất với phát triển của Việt Nam giai đoạn 2026-2045 và trong thế kỷ XXI là lao động sẽ giảm sau năm 2035 do mức sinh dưới mức sinh thay thế 80 năm.
Ông Nhân phân tích: 50 năm phát triển của Nhật Bản từ năm 1975-2025 có 2 giai đoạn trái ngược nhau, 20 năm 1975-1995 Nhật Bản đạt 4 thành tựu và chứng kiến 1 suy giảm. 4 thành tựu là: GDP tăng trưởng bình quân hơn 12%/1 năm, GDP đầu người tăng bình quân 11,8%/1 năm, dân số tăng 12,5% và lao động tăng 14,9%. Một suy giảm là mức sinh giảm từ 1,9 xuống 1,42. 30 năm sau 1975-2025 Nhật Bản chứng kiến 5 giảm: GDP giảm 27%, GDP/người giảm 26%, lao động giảm 16% và dân số giảm 3%, mức sinh giảm từ 1,42 xuống còn 1,15, thấp nhất trong lịch sử. Năm 1999 Nhật Bản đã dự báo dân số năm 2100, khoảng 60 triệu người, giảm 53%; năm 2200 là 10 triệu người, giảm 92% và năm 2300 là 3 triệu người, giảm 98%; năm 3000 còn 500 người. Năm 2006 Nhật Bản dự báo lại năm 3000 sẽ còn 62 người.
Theo ông Nhân trong 20 năm, từ năm 1975-1995, Nhật Bản có 4 thành tựu, 4 tăng trưởng nhưng chỉ có 1 hạn chế, một giảm là mức sinh giảm, nhưng chính một giảm duy nhất này 30 năm sau đã kéo lùi 4 thành tựu tăng trưởng của 20 năm trước và tạo ra 5 giảm: GDP giảm, GDP đầu người, giảm lao động, dân số và mức sinh giảm. Nếu không khôi phục mức suy giảm dưới mức thay thế trở lại mức thay thế thì sau 300 năm, đất nước 128 triệu dân sẽ mất 98% dân số, chỉ còn 3 triệu người. Nguyên nhân trực tiếp duy nhất của quá trình này là mức sinh đã giảm dưới mức thay thế 50 năm từ 1974 đến 2024 và sẽ tiếp tục giảm đến hết thế kỷ.
Mức sinh của Việt Nam đã giảm dưới mức thay thế từ năm 2022. Viện Tính toán và đánh giá sức khỏe Đại học Washington, Mỹ đã dự báo mức sinh của 200 nước, lãnh thổ trên toàn thế giới từ 2022 đến 2100, trong đó mức sinh của Việt Nam năm 2050 dự báo là 1,63 và 2100 là 1,38. Tức là thế kỷ 21 của Việt Nam sẽ là thế kỷ mà mức sinh giảm dưới mức thay thế gần 80 năm, dài hơn 50 năm của Nhật Bản. Như vậy, về căn bản, nếu không có đột phá về chính sách con người, chúng ta sẽ đi theo con đường của Nhật Bản, song chậm hơn vì mức sinh dưới thay thế Việt Nam đi sau Nhật Bản 50 năm.
Tuy nhiên, theo ông Nhân, 20 năm từ năm 2025-2045 của Việt Nam có một điểm bất lợi hơn so với Nhật Bản. Trong giai đoạn 1975-1995, lao động của Nhật Bản tăng 14,9%, tức là tăng trưởng kinh tế vượt đạt 20 năm dựa trên tăng trưởng năng suất và tăng trưởng số lao động. Còn trong 20 năm của Việt Nam 2025 - 2045, dự báo khá chắc chắn lao động chỉ tăng 10 năm đến 2035, sau đó giảm. Như vậy, trong 10 năm 2025-2035, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có 2 động lực năng suất tăng và lao động tăng. Sau 10 năm tiếp theo chỉ còn một động lực năng suất tăng, không còn động lực lao động tăng, thậm chí lao động giảm sẽ gây áp lực làm giảm tăng trưởng kinh tế. Lao động tăng dồi dào suốt 50 năm từ 1975 đến 2025 là lợi thế lớn cạnh tranh và phát triển của Việt Nam, nhưng sau 2035 lao động giảm sẽ thiếu lao động, cản trở tăng trưởng kinh tế trong 65 năm tiếp theo. Đây là thách thức lớn nhất với phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong thế kỷ 21.
“Nếu không có đột phá về chính sách con người Việt Nam, mà đột phá đó bắt đầu với Luật Dân số lần này, việc mức sinh giảm như đã dự báo thì sẽ dự báo sơ bộ dân số Việt Nam giảm từ 110 triệu người năm 2050 xuống còn 88 triệu vào năm 2100, 46 triệu vào năm 2200, 23 triệu vào năm 2300, và không quá 200.000 người vào năm 3000. Dự báo của người Nhật Bản thì còn 62 người vào năm 3000, còn Hàn Quốc thì không còn ai vào năm 2750”, ông Nguyễn Thiện Nhân cho hay.
Nhận định thứ hai, theo ông Nhân, các giải pháp đề xuất trong dự thảo Luật dân số 2025 không đủ để đảm bảo duy trì vững chắc mức sinh thay thế Việt Nam. Như Nghị quyết 21 năm 2017 của Trung ương về công tác dân số trong tình hình mới đã yêu cầu mức sinh sẽ tiếp tục giảm. Có 11 nguyên nhân trực tiếp và 5 nguyên nhân gốc rễ của hiện tượng Nhật Bản cũng như việc tất cả 40 nước thu nhập cao trên thế giới, dân số trên 1 triệu người đã trải qua 40 năm, mức sinh thấp và mức sinh hiện nay bình quân là 1,45. Có 2 nguyên nhân quan trọng nhất, các chính phủ, các chủ doanh nghiệp không coi giữ vững mức sinh thay thế là tiền đề đặc biệt quan trọng để đất nước, doanh nghiệp phát triển bền vững mà coi tăng trưởng kinh tế cao và lợi nhuận tối đa của các doanh nghiệp là quan trọng nhất.
Thứ hai, một chân lý giản dị nhưng không được các chính phủ và công đoàn nói tới, là phải thay đổi chính sách tiền lương. Tiền lương tối thiểu phải đủ nuôi được người lao động và nuôi được một người con ăn học đàng hoàng tới 18 tuổi, như vậy mới có thể đủ điều kiện sinh một con, hay hai cha mẹ cùng làm mới nuôi được hai con. Nếu yêu cầu này không được đáp ứng, không bao giờ mức sinh của đất nước đạt và duy trì ổn định mức sinh thay thế. Ở Nhật Bản, lương tối thiểu bình quân ở Tokyo là 168.000 yên, tương đương 1120 USD/tháng. Lương này chỉ đảm bảo cho cuộc sống của người lao động, tức là nhu cầu chi 1 ngày cho 1 người lao động là 37,3 USD. Để nuôi một trẻ từ lúc sinh đến 18 tuổi, Nhật Bản cần chi 21,7 triệu yên, một năm cần 1,2 triệu yên, một tháng là 100.000 yên, tương đương 700 USD/ tháng, chi phí một ngày là 23,3 USD. Trong khi đó, Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ một trẻ bình quân một ngày không quá 5 USD, chỉ bằng 22% nhu cầu nuôi dạy trẻ. Rõ ràng, rất nhiều phụ nữ Nhật Bản không thể chỉ vì được hỗ trợ 5 USD/ngày mà sinh thêm một con, trong khi lương của họ chỉ bằng lương tối thiểu hoặc không cao hơn 50% lương tối thiểu.
Báo cáo đánh giá tác động chính sách dự thảo luật, Bộ Y tế đề xuất 4 biện pháp để duy trì vững chắc mức sinh thay thế. 4 biện pháp bao gồm, người mẹ được nghỉ thai sản thêm một tháng, được nhận 62 triệu đồng. Người bố được nghỉ thêm 5 ngày, được nhận 695 ngàn đồng. Sinh con thứ hai trước 35 tuổi được 2 triệu đồng. Sinh con ở khu vực có mức sinh thấp hỗ trợ 2 triệu đồng và phụ nữ người dân tộc sinh con hỗ trợ 2 triệu đồng. Tổng cộng một phụ nữ sinh được hỗ trợ 9-13 triệu/lần. Với 4 quy định hỗ trợ nói trên, Bộ Y tế nhận định giải pháp này tạo hành lang pháp lý đồng bộ để duy trì vững chắc mức sinh thay thế.
Song ông Nhân đánh giá, nhận định này là không có cơ sở thực tiễn. Mức lương tối thiểu vùng bình quân cả nước hiện nay là 4,17 triệu đồng, tạm đủ để duy trì cuộc sống của một người lao động. Để nuôi được một người con, người lao động cần ít nhất thêm 4,17 triệu đồng/tháng. 1 năm cần 50 triệu, 3 năm cần 150 triệu và 18 năm cần 900 triệu. Mức hỗ trợ một lần khi sinh như Bộ Y tế đề xuất, 9,3 triệu chỉ bằng 1-1,5% chi phí nuôi một trẻ. Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ 22% chi phí để nuôi một trẻ nhưng họ đã thất bại, nếu chúng ta hỗ trợ 1-1,5% mà nhận định là thành công, duy trì vững chắc mức sinh như thế là xa rời thực tế.














