'Hơi thở đại ngàn' - Tiếng lòng da diết với hồn cốt Tây Nguyên trong 'Gió thổi từ miền ký ức' của Uông Thái Biểu
Lật giở từng trang trong phần 'Hơi thở đại ngàn' tập tùy bút, tản văn 'Gió thổi từ miền ký ức' của Uông Thái Biểu (xin xem: ''Mạch nguồn bất tận' trong tập tùy bút và tản văn Gió thổi từ miền ký ức của Uông Thái Biểu' - baolamdong.vn đăng ngày 18/6/2025), người đọc không đơn thuần chỉ đang đọc một tập tản văn, mà đang thực hiện một cuộc hành trình sâu vào tâm hồn của vùng đất Tây Nguyên - một cuộc hành trình đầy ắp tình yêu, sự trân trọng, nhưng cũng phảng phất nỗi nuối tiếc khôn nguôi. Tác giả không đứng ngoài với tư cách một người quan sát, mà hòa mình vào xứ sở ấy, để rồi cất lên tiếng nói từ chính trái tim mình, một tiếng nói vừa hào sảng, phóng khoáng như gió ngàn, vừa trầm mặc, da diết như tiếng chiêng đêm.

Tập bút ký và tản văn "Gió thổi từ miền ký ức" của Uông Thái Biểu. Ảnh: N.Viên
Trước hết, ngòi bút của Uông Thái Biểu đượm đầy lòng biết ơn và sự kính trọng đối với “những người gieo cảm hứng” (tr. 142 - Gió thổi từ miền ký ức, Nxb. Hội Nhà văn, 2019; các trích dẫn sau chỉ ghi số trang). Tác giả không khởi đầu bằng việc mô tả cảnh sắc thiên nhiên hay không gian văn hóa, mà bắt đầu từ việc tri ân những con người đã khai mở cho ông cánh cửa bước vào “lớp trầm tích thú vị bên trong” của văn hóa miền thượng (tr. 142). Họ là những học giả uyên bác như GS. Phạm Đức Dương, GS. Trần Quốc Vượng - những người sẵn lòng dành thời gian, tâm huyết để truyền đạt cho một “cậu phóng viên tập sự” những tri thức nền tảng về dân tộc học, địa - văn hóa (tr. 142). Uông Thái Biểu vẫn nhớ như in lời nhắn nhủ của GS. Phạm Đức Dương: “Cháu sống và làm nghề viết ở Tây Nguyên, nếu không ít nhiều hiểu biết về lịch sử, văn hóa, căn tính người bản địa thì bài viết sẽ nhạt nhẽo, đi bên rìa, không thể cung cấp cho người đọc những lớp trầm tích thú vị bên trong…” (tr. 143). Ảnh hưởng của GS. Trần Quốc Vượng lại thể hiện một cách khác biệt: “Dù không biểu đạt bằng nhiều lời nhưng phong thái ấy, cốt cách ấy và tầm hiểu biết sâu sắc của cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã tạo cho người đối diện sự tin cậy và cảm hứng lan tỏa” (tr. 146). Bên cạnh đó còn có những học giả phương Tây như Jacques Dournes, Georges Condominas - những người đã dành trọn “những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời mình” để sống, để hiểu và để yêu vùng đất này một cách trọn vẹn (tr. 143). Và, không thể không nhắc đến các bậc trí giả khác mà tác giả có dịp gặp gỡ, học hỏi như GS.TS. Nhạc sĩ Tô Ngọc Thanh, GS.TSKH. Phan Đăng Nhật, GS. Ngô Đức Thịnh, GS. Nhạc sĩ Tô Vũ, GS. Hà Văn Tấn, GS. Phan Huy Lê, GS. Mạc Đường... Với sự khiêm nhường đáng quý, tác giả viết: “Từ những kiến thức mà các bậc thức giả đã ‘sấy khô, cô đặc’ trong suốt cuộc đời làm khoa học của mình đã khai mở cho, cùng với những trang khảo cứu vô giá của các trưởng bối, đã giúp cho người viết báo non trẻ ở chốn núi rừng có thêm chút hành trang nhỏ bé khi đến với đồng bào nơi miền đất mà mình yêu quý” (tr. 147).
Việc đặt những con người ấy ở vị trí trang trọng ngay trong bài viết mở đầu “Những người gieo cảm hứng” không chỉ thể hiện thái độ khiêm cung của người cầm bút, mà còn cho thấy bản lĩnh tự học, khát vọng tiếp cận đến tận cùng cội rễ văn hóa. Đó là lựa chọn của một người viết không chấp nhận dừng lại ở cái nhìn bề mặt, mà luôn đau đáu đi tìm chiều sâu trong từng trang viết.
Từ sự thấu hiểu sâu sắc về con người và vùng đất Tây Nguyên, Uông Thái Biểu đã khắc họa nên hình ảnh một Tây Nguyên nguyên sơ, mãnh liệt, đầy sức sống – nơi vẻ đẹp không chỉ hiện lên qua cảnh sắc mà còn tỏa ra từ con người. Trong đó, biểu tượng giàu chất ám dụ nhất có lẽ là hình ảnh “đôi chân trần” (tr. 148). Không đơn thuần là một chi tiết tả thực, “đôi chân trần” đã được nâng lên thành biểu tượng cho sự hòa quyện máu thịt giữa con người và đất mẹ, cho sức mạnh tiềm tàng được rèn luyện qua khắc nghiệt thiên nhiên. Những con người Tây Nguyên được “trui rèn thân xác” từ Nước và Lửa (tr. 149), với “đôi chân trần mạnh như hổ, nhanh như báo, dẻo như trăn” (tr. 149). Họ chân trần lên rẫy, lội suối, xoay tròn trong vòng xoang lễ hội (tr. 150) – tất cả tạo nên một biểu tượng của sự kết nối thuần khiết giữa con người và tự nhiên, nơi sức mạnh không đến từ sự cưỡng ép mà được hấp thụ từ chính “mạch nguồn thiên nhiên bất tận” (tr. 150).
Từ hình ảnh mang tính biểu tượng đó, tác giả tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với một hành trình khác: hành trình đi vào “mùa đi” của những người bạn núi – những “kẻ lữ hành” của không gian văn hóa. Dựa trên kiến thức từ Dam Bo (Jacques Dournes) trong cuốn “Miền đất huyền ảo”, Uông Thái Biểu tìm hiểu và nhập cuộc vào chính những “mùa đi” ấy, để rồi nhận ra rằng: “những người bạn núi của tôi đang đi trong tâm thức trở về” (tr. 158). Trở về với đâu? Với “làng buôn, nương rẫy, núi rừng, với thiên nhiên bí ẩn mà gần gũi” – nơi mà ký ức, tập quán và bản sắc không bị thời gian xóa nhòa mà vẫn âm ỉ cháy trong từng bước chân người núi (tr. 158).
Trong mạch cảm hứng ấy, bài viết “Phiêu lãng Chu Ru” nổi bật như một bút ký sắc sảo, giàu giá trị dân tộc học, khi tác giả đi sâu khám phá nguồn gốc và bản sắc văn hóa của người Chu Ru – một tộc người ít được biết đến nhưng lại mang trong mình những dấu vết lịch sử đặc biệt. Dựa trên giả thuyết người Chu Ru là hậu duệ của người Chăm di cư từ vùng duyên hải lên miền núi, tác giả phân tích tên gọi “ChuRu” với nghĩa “chui rúc”, “lẩn trốn” – gợi đến cuộc thiên di đầy biến động khỏi vương quốc Chăm Pa xưa. Giả thuyết này được củng cố bằng nhiều bằng chứng như truyền thuyết từ các già làng, sự tương đồng ngôn ngữ thuộc hệ Mã Lai – Đa Đảo, cùng các huyền thoại về việc người ChuRu từng bảo vệ hoàng tộc và kho báu Chăm Pa. Tác giả còn khắc họa đặc điểm văn hóa – kinh tế đặc sắc của người Chu Ru: từ tài làm ruộng nước, nặn gốm, đúc bạc đến buôn bán đường dài – những kỹ năng hiếm thấy ở các tộc người miền núi khác. Truyền thống Nau drà (đi chợ) về Phan Rang, Phan Thiết không chỉ là hoạt động kinh tế, mà được cảm nhận như một cuộc hành hương vô thức trở về cội nguồn biển cả. Tính cách người Chu Ru cũng được mô tả một cách đầy nhân văn – “lịch lãm, bặt thiệp, kiệm lời, hòa nhã” (tr. 168), như một chiến lược sinh tồn âm thầm nhưng bền bỉ của “những người đến sau” trên mảnh đất chung với các tộc người khác.
Tuy nhiên, dưới ánh nhìn tỉnh táo và đầy trăn trở, Uông Thái Biểu không né tránh hiện thực đang phai nhạt: khi thế hệ trẻ không còn mặn mà với nghề gốm – một biểu tượng văn hóa từng gắn bó máu thịt với cộng đồng. Chính vì vậy, bài viết không chỉ là một ghi chép về phong tục, lịch sử hay địa văn hóa, mà còn là một áng văn giàu chất trữ tình, là tiếng lòng của một người viết luôn hướng về tâm thức di dân – với niềm đau đáu về bản sắc, về sự sống còn của những giá trị văn hóa được định hình trong hành trình từ biển cả đến núi rừng.
Chính vì vậy, Hơi thở đại ngàn không chỉ vang lên những thanh âm trong trẻo, hùng tráng của núi rừng, mà còn ngân lên những nốt trầm đầy ưu tư. Ẩn hiện trong từng câu chữ là một nỗi buồn sâu thẳm, một niềm khắc khoải day dứt trước nguy cơ mai một của những giá trị văn hóa truyền thống. Nỗi buồn ấy như được kết tinh trong hành trình “Đi tìm giấc mơ Chapi” (tr. 159) – nơi cây đàn Chapi, một nhạc cụ từng “ai nghèo cũng có” (tr. 162), giờ lại trở thành thứ của hiếm. Câu chuyện về nghệ nhân Chamale Âu là minh chứng đau lòng cho thực trạng ấy. Trầm ngâm nhìn cây đàn, ông chua xót thốt lên: “Bây giờ cũng chẳng có mấy thằng con trai đủ ham đi tìm ống tre gai này nữa. Cũng chẳng còn mấy đứa biết gảy đàn Chapi (...) cả vùng Ma Nới này chẳng có đứa nhỏ nào biết làm đàn, gảy đàn Chapi nữa” (tr. 161–163). Dù tình yêu dành cho Chapi và văn hóa dân tộc Raglai vẫn cháy bỏng trong lòng ông, nhưng khi cố gắng “kêu mấy đứa trong plei tới dạy Chapi”, thì chỉ nhận lại sự hờ hững: “chẳng có đứa nào thèm học...”, bởi lũ trẻ bây giờ chỉ mải mê với “nhạc xập xình” (tr. 164).
Nỗi buồn của già làng Chamale Âu cũng chính là nỗi niềm của tác giả – người luôn đau đáu trước sự lặng lẽ ra đi của một phần hồn cốt văn hóa: “Còn đâu những tháng ngày Chapi theo người Raglai lên rừng, lên rẫy để khi buồn, khi vui cũng bập bùng tiếng đàn. Còn đâu Chapi trong tay những người con trai gảy điệu nhớ thương chờ đợi người yêu bên suối vắng” (tr. 164). Giấc mơ Chapi – từng là một phần của đời sống, của ký ức và tình yêu – giờ đây chỉ còn là một giấc mơ chênh vênh, một “giấc mơ nao lòng” (tr. 164), mỏng manh và đầy tiếc nuối giữa thực tại nghiệt ngã của sự đứt gãy văn hóa.
Nỗi tiếc nuối ấy càng trở nên day dứt trong bài viết “Còn đâu bếp lửa nhà dài” (tr. 204), nơi tác giả gióng lên hồi chuông báo động về sự biến mất của một biểu tượng văn hóa đặc trưng – ngôi nhà dài. Việc mất đi nhà dài không đơn thuần là đánh mất một công trình kiến trúc truyền thống, mà là sự tan rã của cả một không gian sinh tồn, một lối sống cộng đồng đã gắn bó máu thịt với người dân Tây Nguyên qua nhiều thế hệ. Lời than của già K’Noi vang lên như một tiếng kêu cứu đầy ám ảnh: “Không còn nhà dài, toàn ở nhà xây thì còn nơi nào để mà nuôi cái chóe, cái chiêng nữa!” (tr. 201). Đó không chỉ là nỗi buồn của một cá nhân, mà là tiếng nói tuyệt vọng của cả một thế hệ đang chứng kiến di sản văn hóa dần bị đời sống hiện đại lấn át và xóa nhòa. Bếp lửa, chóe rượu cần, tiếng chiêng – những biểu tượng linh hồn của sinh hoạt cộng đồng – giờ đây đang lặng lẽ rời xa cuộc sống thường nhật, để lại khoảng trống không thể lấp đầy trong ký ức văn hóa và tâm thức cộng đồng.
Trước thực trạng văn hóa truyền thống đang dần phôi pha, Uông Thái Biểu không chọn thái độ thở dài bất lực, mà cất lên một tiếng nói mạnh mẽ, một lời kêu gọi đầy tha thiết: “Hãy trả sử thi về cho nhân dân” (tr. 176). Đó không chỉ là tiếng lòng đau đáu trước nguy cơ thất truyền, mà còn là sự phê phán sâu sắc đối với những nỗ lực bảo tồn mang tính hình thức, khiên cưỡng và phi bản sắc. Tác giả không giấu được nỗi thất vọng trước cảnh một nghệ nhân bị ép “đóng khố đứng trước micro, ọc ạch đọc... khan” giữa ánh đèn sân khấu lòe loẹt, xa lạ (tr. 182) – một hình thức tái hiện máy móc, làm mất đi linh hồn của sử thi. Bởi với Uông Thái Biểu, sử thi – cũng như mọi hình thức văn hóa dân gian chân chính – chỉ có thể sống và lan tỏa trong chính không gian sinh ra nó: “bên bếp lửa dưới mái nhà rông” (tr. 181), nơi “lửa nuôi khan – lửa là linh hồn của đêm khan Tây Nguyên” (tr. 177). Lời kêu gọi ấy không chỉ thể hiện tầm hiểu biết sâu sắc về giá trị đích thực của văn hóa, mà còn toát lên một tình yêu có trách nhiệm – một tình yêu gắn liền với khát vọng gìn giữ bản sắc trong sự tôn trọng những quy luật tự nhiên và nguyên bản của đời sống cộng đồng.
Khép lại những trang sách phần “Hơi thở đại ngàn” trong “Gió thổi từ miền ký ức” để lại trong lòng người đọc một cảm xúc đan xen: vừa say mê, tự hào trước một nền văn hóa độc đáo, đậm đà bản sắc; vừa ngậm ngùi, xót xa cho những giá trị đang dần phai nhạt trước làn sóng hiện đại hóa. Tác phẩm của Uông Thái Biểu vì thế không chỉ đơn thuần là một tập tản văn – du ký, mà còn là một lời tâm sự thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước, một khúc bi ca đầy trăn trở và cũng là một lời cảnh tỉnh thiết tha. Bằng giọng điệu chân thành và cảm xúc lắng đọng, tác giả không chỉ kể chuyện, mà mời gọi người đọc lắng nghe – không chỉ bằng đôi tai, mà bằng cả trái tim – để cảm nhận được hơi thở đích thực của đại ngàn, trước khi nó lặng lẽ trôi vào quá vãng, chỉ còn vang vọng như một tiếng vọng buồn từ miền ký ức xa xôi. Bởi vậy, tôi vẫn muốn nói lại, mong lắm những bài viết như của Uông Thái Biểu được các nhà lãnh đạo đọc và quan tâm…