Khuyến khích hình thành doanh nghiệp đường thủy lớn
Đó là phát biểu của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể tại Hội nghị công bố Quy hoạch kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tổ chức tại Hà Nội, chiều 10-11.
Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể phát biểu tại hội nghị.
Quy hoạch kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1829/QĐ-TTg ngày 31-10-2021. Đây là quy hoạch thứ 4 trong 5 quy hoạch chuyên ngành Giao thông Vận tải và là quy hoạch thứ 4 trong tổng số 37 quy hoạch chuyên ngành quốc gia được Chính phủ phê duyệt.
Theo quy hoạch, kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa là một trong ba khâu đột phá chiến lược, cần được ưu tiên đầu tư, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Phát triển kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa trên cơ sở khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của từng vùng và từng bước đồng bộ, hiện đại, bảo đảm an toàn giao thông; phát huy lợi thế là phương thức vận tải hàng hóa khối lượng lớn, chi phí vận tải thấp ở cự ly trung bình; kết nối hiệu quả với các phương thức vận tải khác, với hạ tầng giao thông địa phương và quốc tế. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm nhất là tại các vùng có tiềm năng, lợi thế như vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Theo tính toán, nhu cầu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa đến năm 2030 dự kiến khoảng 157.533 tỷ đồng. Trong đó, nguồn vốn ngân sách nhà nước khoảng 28.919 tỷ đồng, tập trung đầu tư cho luồng tuyến; vốn ngoài ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác khoảng 128.614 tỷ đồng, đầu tư cho cảng bến…
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể nhấn mạnh, giao thông phải đi trước một bước, thông suốt để tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Trong 5 năm tới, Bộ Giao thông Vận tải sẽ cố gắng cụ thể hóa 9 hành lang vận tải để khai thác đường thủy nội địa, đó là tuyến hành lang ven biển (cách bờ 12km) từ Quảng Ninh - Cà Mau, khai thác qua Kiên Giang, đi qua hàng trăm cảng biển sẽ đáp ứng yêu cầu vận tải hàng hóa Bắc - Nam, giảm tải cho đường bộ và đường sắt. Đây chính là luồng vận tải ven bờ quan trọng số 1.
Chính quyền các địa phương cần quan tâm đến đẩy mạnh phát triển luồng tuyến này bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp mua tàu biển, hình thành doanh nghiệp vận tải ven biển để “cõng” hàng hóa dọc theo chiều dài đất nước. Khi đó, tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam chủ yếu phục vụ vận chuyển hành khách, hàng hóa sẽ theo tuyến vận tải thủy ven biển.
Ở khu vực phía Bắc, vận tải đường thủy chưa phát triển như phía Nam nhưng Bộ Giao thông Vận tải xác định có 4 luồng quan trọng gồm: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; Hà Nội - Việt Trì - Lào Cai; Quảng Ninh - Hải Phòng - Ninh Bình, Hà Nội - Nam Định - Ninh Bình. Bộ sẽ huy động vốn xã hội hóa để xây các cảng nội địa kết nối với vận tải đường bộ để đưa hàng hóa xuống đường thủy.
Ở miền Nam, có 4 hành lang gồm: thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ - Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh - An Giang - Kiên Giang, Bà Rịa -Vũng Tàu - Tây Ninh - thành phố Hồ Chí Minh và hành lang vận tải thủy kết nối với Campuchia qua sông Tiền, sông Hậu.
Bộ Giao thông Vận tải cũng tính toán đến nguồn vốn đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư. Trong đó, vốn đầu tư công chỉ để nâng cấp tĩnh không cầu, đồng thời tạo điều kiện cơ chế chính sách các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn một cách thuận lợi để mua sắm phương tiện để khu vực nào cũng phát triển; khuyến khích hình thành các tổng công ty hay tập đoàn, doanh nghiệp đường thủy với đội tàu hùng hậu sẽ “cõng” hàng cho đường bộ như hiện nay, qua đó giúp giảm chi phí logistics....