Kỷ niệm 260 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2025): Bài 2 - Truyện Kiều, áng văn bất hủ
'Truyện Kiều là một áng văn kiệt tác mà dân tộc ta lấy làm tự hào một cách chính đáng. Với lời thơ rất đẹp, tác phẩm nghệ thuật đó đã tố cáo một cách hùng hồn chế độ bất công của thời phong kiến, nhất là đối với phụ nữ và đấu tranh cho chủ nghĩa nhân đạo, cho tình yêu chân chính của con người' ( Tổng Bí thư Trường Chinh).

Từ khi ra đời đến nay, Truyện Kiều luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu và bạn đọc
“Cảo thơm lần giở trước đèn”...
Trong kho tàng di sản thơ ca của Đại thi hào Nguyễn Du, có lẽ không phải bàn cãi một “chân lý” rằng: “Truyện Kiều” là một kiệt tác bất hủ. Và, dưới góc nhìn hạn hẹp của người viết, của dân ngoại đạo văn chương hay đúng hơn là góc nhìn của bạn đọc thông thường, thì nếu ví Truyện Kiều như một đại thụ, thì từ lá cành đến cội rễ, hay từ nội dung đến nghệ thuật, nó đều đẹp đến nao lòng và đau lòng. Nao lòng là khi tâm hồn ta được chạm vào một tuyệt tác hội họa, được vẽ bằng cây bút ngôn từ tinh diệu và hòa trong màu mực tinh tế của vần điệu. Ở đó, những cảnh, những người được khắc họa bằng những nét đậm nhạt sinh động vô ngần.
Chẳng hạn, tác giả vẽ hai nàng Tố Nga chỉ ngắn gọn trong đôi câu lục bát, mà vượt lên cả những thước ngọc khuôn vàng của vẻ đẹp người phụ nữ xưa: Vân thì “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang/Hoa cười ngọc thốt đoan trang””; còn với Kiều, tác giả thậm chí tả như không tả nhưng ý tại ngôn ngoại hơn vạn câu chữ: “Làn thu thủy, nét xuân sơn/Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Hay bức tranh bốn mùa trong Truyện Kiều mới thật sự là đỉnh cao của hội họa bằng ngôn từ: “Cỏ non xanh rợn chân trời/Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”; “Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”; “Long lanh đáy nước in trời/Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”; “Sen tàn cúc lại nở hoa/Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”...
Điều thú vị cũng là hấp dẫn tuyệt vời của Truyện Kiều là nó ví như viên kim cương đa diện, mà khi nhìn ở góc độ đều tỏa ánh sáng rực rỡ. Đó là thứ ánh sáng có thể soi rọi vào những tầng xúc cảm nằm sâu dưới đáy tâm can con người: đau đớn, bất lực, sợ hãi, khắc khoải, vui sướng, hạnh phúc... Đáng nói, tất cả những cảm xúc rất nhân bản ấy được khơi gợi bằng những câu từ đẹp đến đau lòng. Ví như 3 cảnh chia ly đánh dấu 3 mốc lớn trong cuộc đời Thúy Kiều, khi vừa "Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” đã vội vã chia tay Kim Trọng, đến 2 lần thoát khỏi lầu xanh. Với Kim Trọng “Ngại ngùng một bước một xa/Một lời trân trọng châu sa mấy hàng” - là bức tranh tâm trạng nặng trĩu lo âu, khắc khoải và cả những dự cảm chẳng lành của cuộc đời nàng Kiều; với Thúc Sinh”Người lên ngựa, kẻ chia bào/ Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san” - đúng với tâm trạng “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của nàng Kiều; còn với Từ Hải "Quyết lời dứt áo ra đi/Gió đưa bằng tiện đã lòa dặm khơi” - dù là miêu tả sự ra đi dứt khoát của Từ Hải, nhưng có lẽ cũng là sự chấp nhận hiện thực của nàng Kiều sau 2 lần bị lừa bán vào lầu xanh. Đau lòng vì thân phận nàng Kiều nhưng cũng nao lòng bởi ngôn từ tinh diệu.
Học theo người xưa lần dở cảo thơm của Đại thi hào dân tộc, nhưng ngặt một nỗi là kiến thức hạn hẹp, nên xin mượn lời chuyên gia để phác họa lại tuyệt tác kinh điển này. Theo nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm trong “Việt Nam văn học sử yếu” đã nhận xét về Truyện Kiều: "Kết cấu đã có phương pháp, sắp đặt phân minh. Các câu chuyển thần tình khéo léo, tả cảnh thì theo lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt khiến cho người đọc cảm thấy cái thú vị của mỗi cảnh và cái tâm hồn của mỗi vai trong cảnh ấy. Tả người thì vai nào rõ ra tính cách vai ấy, chỉ một vài nét mà như vẽ thành bức truyền thần của mỗi vai, khám phá được tâm lý của vai ấy, khiến cho nhiều vai (như Sở Khanh, Tú Bà) đã thành ra những nhân vật dùng làm mô dạng cho đời sau. Văn tả tình thì thật là thấm thía, thiết tha làm cho người đọc phải cảm động. Cách dùng điển thì đích đáng, tự nhiên, khiến cho người học rộng thì thưởng thức được lối văn uẩn súc, mà người thường cũng hiểu được đại ý của câu văn"
Còn Đào Nguyên Phổ thì đưa ra một lời khen vô cùng chí lý: "Lời lẽ xinh xắn mà văn hoa ; vần điệu tròn trịa mà êm ái; tài liệu lựa rất rộng, sự tích kể rất thương; lượm lặt những diễm khúc tình từ ở đời trước, lại góp đến cả phương ngôn, ngạn ngữ của nước nhà, nồng nàn vụn vặt không sót, quê mùa, tao nhã đều thu. Nói tình thì vẽ rõ tình trạng hiệp ly cam khổ, mà tình không rời cảnh, tả cảnh thì bày hết thú vị tuyết nguyệt phong vân, mà cảnh tự vướng tình; mực muốn múa mà bút muốn bay, chữ hay phô và câu hay nói, khiến người cười, khiến người khóc, khiến người vui, khiến người buồn, khiến người giở đi giở lại ngàn lần, càng đọc thuộc lại càng không biết chán, thật là một khúc nam âm tuyệt xướng, một điệu tình phố bực đầu vậy. Lời xưa nói: Làm trai biết đánh tổ tôm, uống chè Chính Thái xem nôm Thúy Kiều mới là hợp thú tao nhã. Vì sao? Há chẳng phải là Thúy Kiều tài sắc không hai, làm một người tình ngàn xưa tuyệt đỉnh, mười lăm năm lịch duyệt phong trần, làm một việc tình ngàn xưa tuyệt đỉnh, diễn ra làm truyện, lâm ly, đốn tỏa, thành một khúc tình từ tuyệt đỉnh ngàn xưa... Người đã kỳ, việc lại kỳ, mà văn chương càng thêm kỳ...".
Giá trị vượt thời gian
Kiệt tác thơ Nôm Truyện Kiều (tên gốc là Đoạn trường tân thanh) gồm 3.254 câu lục bát, dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Trung Quốc. Thế nhưng, một nghiên cứu đã đưa ra nhận định rằng, hầu hết học giả đều xem Truyện Kiều không phải là tác phẩm dịch hay phóng tác, mà là một tác phẩm sáng tạo đích thực. Lẽ cố nhiên, là được sáng tạo theo các quy luật của văn học trung đại, trên cơ sở vay mượn, cải biên, cải tạo một truyện có sẵn để tạo thành “một tác phẩm khác”, “xuất phát từ một cảm hứng mới”, với “những nguyên liệu mới”, “những điều nghe thấy, cảm xúc, suy nghĩ của mình trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam thời đại Nguyễn Du”.
Nhà thơ Hữu Thỉnh cho rằng: “Nguyễn Du đi tiên phong và đặc biệt thành công viết tiểu thuyết bằng thơ với nghệ thuật điêu luyện xây dựng tính cách và phân tích tâm lý nhân vật. Nguyễn Du cũng là nhà thơ tiên phong đề cao ngôn ngữ dân tộc, nhào nặn và tinh luyện những “lời quê góp nhặt” thành những viên ngọc toàn bích của tiếng Việt. Nguyễn Du cũng là người đi tiên phong với thể thơ lục bát, người có công đầu và đại diện lớn nhất đưa thể thơ lục bát trở thành những mẫu mực tuyệt vời, một đỉnh cao sáng chói không dễ vượt qua. Cũng giống như mọi vĩ nhân, với Nguyễn Du, hành trình văn hóa đã được cắm mốc, một cái mốc và một đỉnh cao để chúng ta từ đó mà thưởng thức và suy tưởng về lịch sử, về con người từ ngàn xưa đến ngàn sau”.
Truyện Kiều thực chất là bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Việt Nam đương thời. Tác phẩm kể về 15 năm lưu lạc đầy bi kịch của Thúy Kiều. Giá trị hiện thực nổi bật của trước tác này đã lột tả bộ mặt đen tối, bất công, tàn bạo của chế độ phong kiến Việt Nam; phơi bày nỗi khổ đau đến cùng cực, nhất là người phụ nữ; là lời tố cáo đanh thép các thế lực tàn bạo chà đạp lên nhân phẩm, quyền sống; vạch trần sức mạnh ghê gớm của đồng tiền có thể “đổi trắng thay đen”, biến con người thành hàng hóa bị mua bán, đổi chác. Về giá trị nhân đạo, đó là tiếng nói bênh vực con người, đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lý, ngợi ca lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, đức vị tha, thủy chung, chí khí anh hùng. Về nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với lời ăn tiếng nói dân gian, nâng tiếng Việt và thể thơ lục bát lên tới đỉnh cao, làm giàu cho ngôn ngữ dân tộc.
Chưa hết, nhiều nhân vật trong Truyện Kiều đã trở thành điển hình cho những mẫu người trong xã hội cũ, thậm chí đã đi vào thành ngữ Việt Nam như Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải. Chưa hết, chính khả năng khái quát của nhiều cảnh tình, ngôn ngữ đã khiến quần chúng tìm đến Truyện Kiều như tìm một điều dự báo, vậy nên dân gian xưa có bói Kiều; âm nhạc dân gian thì có lẩy Kiều; sân khấu dân gian thì có trò Kiều; hội họa thì có nhiều tranh Kiều; rồi thì thơ vịnh Kiều nhiều không kể xiết; giai thoại, cải lương Kiều, phim Kiều cũng ra đời... Đó cũng chính là sức sống, là giá trị vượt thời gian của Truyện Kiều.
Bài cuối: Phát huy giá trị di sản của Đại thi hào Nguyễn Du trong kỷ nguyên mới











