Kỷ niệm với Trường Trung học Tiền Phong
Nhớ giữa năm 1953 đầu năm 1954, tôi đang học Trường Trung học Tiền Phong do Xứ đoàn Thanh niên cứu quốc Nam Bộ tổ chức thì có quyết định rút tôi về cơ quan Xứ đoàn để bảo vệ Ban Biên tập Báo Nhân Dân miền Nam, do anh Kỉnh (Nguyễn Phượng Vũ) và anh Hưởng Triều (Trần Bạch Ðằng) phụ trách.

Minh họa: Minh Tấn
Chiều đó, anh Bạch Ðằng thân mật nói: “Chú đang ngon trớn học, anh Nguyễn Duy Cương (Tiến sĩ), anh Tô Dự (Họa sĩ), anh Nguyễn Hải Trừng (Nhà thơ), Lý Văn Sâm (Hai Lý, Nhà văn), Ðào Anh Kha (dạy thế giới ngữ); rồi chị Chân, chị Lý, chị Loan... nói chung các anh chị đều góp ý để chú học hết chương trình. Ðặc biệt, anh Cao Ngọc Thọ vừa dự cuộc họp thanh niên xây dựng hòa bình thế giới cũng nói là để chú học tiếp, nhưng thú thực là ta vừa chọn một trung đội tuổi trẻ ưu tú gởi cho miền Ðông, nên ta hiện thiếu nòng cốt làm việc, giờ phải nhờ đến chú...".
Tôi lắng nghe xong, hăm hở nói: Thưa anh Năm, học giỏi cũng để công tác tốt. Giờ thì công tác cần hơn học, tôi đồng ý vậy.
Anh Trần Bạch Ðằng bắt tay tôi rất chặt và nói: Hay quá! Chú vừa công tác vừa học, không có gì mất đâu!
Lúc chạng vạng tối, anh Nhơn, Phó Văn phòng Xứ đoàn đốt đèn ta đăng sáng rực, rồi cầm trao cho tôi cây tiểu liên Mi-trai-dết và 3 băng đạn có bao vải chéo quai mang vào ngực khi đứng gác, rằng: Ðồng chí Trần Bạch Ðằng dặn tôi trao súng này và bảo tôi tập huấn chú bắn cho thật giỏi. Từ nay, chú là Tiểu đội phó Tiểu đội bảo vệ cơ quan Xứ đoàn (cũng là Ban Biên tập Báo Nhân Dân miền Nam) và chú cũng là Tiểu đội phó Tiểu đội giao liên cơ quan liên lạc thư và mật thư qua lại giữa Xứ đoàn và Xứ ủy; giữa Ban Biên tập và Nhà in Trần Phú (địa chỉ hai nơi sẽ cho chú rõ sau), giờ chú phải nhận xuồng be tám, quai chèo và đèn pin...
Anh Nhơn vừa dứt câu, lại tiếp lời: Ờ, còn việc quan trọng này nữa, tôi xin tự giới thiệu: Tôi là Chi ủy viên cơ quan Xứ đoàn, cũng là Bí thư liên chi đoàn cơ quan Xứ đoàn và Ban Biên tập Báo Nhân Dân miền Nam, trực tiếp chỉ huy chú.
“Còn chú sẽ chỉ huy các tổ như sau: Tổ 1 gồm Thảo, Khai, Nhựt... lo cắm câu, giăng lưới, đổ tép, gặt lúa. Tổ 2 gồm Ðăng, Oanh, Yến... lo in Roniô, đánh máy, in tranh của các Họa sĩ Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Văn Mười, Diệp Minh Châu. Anh Ðằng còn dặn chú thận trọng, vì các anh chị này đều học giỏi và lớn tuổi hơn chú, tốt nhất là mình nên lễ độ và khiêm nhường với bạn, mọi thứ đều do chú mà nên”, anh Nhơn nói tiếp.
Hình như lúc này sắp đến ngày cả nước đang chuẩn bị sang tổng phản công. Báo Nhân Dân miền Nam phải in bài thơ, tôi chỉ nhớ mấy câu:
Hôm nay tháng Bảy ngày hăm bảy
Súng vẫn còn reo khắp chiến trường
Giặc Pháp vẫn còn trên đất nước
Ta còn chiến đấu giữ quê hương...
Ngay trong đợt này, anh Nguyễn Hải Trừng, tác giả tập thơ “Chú Hai Neo”, được giải Ba về truyện thơ Nam Bộ, nên anh được Ban Biên tập phân công mang bài báo nhan đề “Nhắm cho đúng, đừng bắn sai, giết nó!”. Ðó là bài báo nổi tiếng của Văn hào Nga Erenbua (trích trong tập 100 bức thư của tác giả). Nhưng anh Nguyễn Hải Trừng dịch văn Erenbua còn nhờ một chiến sĩ của ta cầm súng ngắm bắn cho chính anh vẽ vào bản thảo cho Nhà in Trần Phú in giống như Liên Xô in vậy. Cơ quan Xứ đoàn ở vàm Khâu Bè đi qua mũi Ông Lục (thuộc vàm Ðàm Ba), đi theo con kinh dân quân mới đào độ 800 mét thì gặp xóm nhà và vườn tược xinh đẹp của anh Tư Rốt, chị Minh Chân, vợ anh Trần Bạch Ðằng và mẹ anh cùng các con cũng ở đây (thời đó chị Lý Hoa, vợ anh Việt Hùng, cháu Ý Nhi ở đây). Mẹ anh Bạch Ðằng nấu chè đậu xanh cúng rằm và mời anh Hải Trừng, tôi ăn chè để hoàn thành bài báo này.
Lúc gần tập kết, Nhà in Trần Phú ở Kinh Ngang, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời (mé rừng U Minh).
Sáng hôm đó, theo lời hứa, tôi có nhiệm vụ lấy xuồng be tám đưa anh Nguyễn Hải Trừng đi nhà in. Xuống xuồng, qua vàm Khâu Bè, qua vàm Ông Lục, ra sông Ông Ðốc, theo ngọn Rạch Bần, ra vàm, quẹo xuống cửa sông Ông Ðốc, chèo 6 cây số vô Kinh Tư, vô kinh Hào Say, đi thẳng vô kinh ngang, quẹo ra mé Công Nghiệp độ 1 cây số, sẽ đến trạm trực của Nhà in Trần Phú. Anh Xích Liên và anh Xích Hồng ở đây.
Nhưng chưa tới nhà in, tôi vừa chèo xuồng vừa mê nghe anh Trừng đọc tập thơ chú Hai Neo, lúc gần qua bụi quao, tôi quên hô: Cầu! Cầu! như mọi khi cho anh Hải Trừng cúi đầu xuống để qua cầu. Lần đó anh bị va đầu vào thân cầu, bật nhào nằm dài xuống xuồng, cũng may không rớt xuống kinh, tôi hú vía tim gan, tay chân rụng rời. Chuyện nghiêm trọng như vậy nhưng anh Trừng nói nhẹ hều: Không sao đâu anh, tôi bị va đầu vào cây như vậy hoài, không hề chi! Anh Trừng xức dầu, xoa đầu một lúc. Lần nguy nan đó, cả nhà ba má tôi, các anh chị và cô Út Chúc cũng không hay luôn đến nay. Cũng nhờ dầu “Nhị thiên đường” anh Tư Trừng tươi tỉnh soạn hết bản thảo và các tranh nghệ thuật của Diệp Minh Châu, Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Văn Mười, Tô Dự... đều được anh em Nhà in Trần Phú nhận in chu đáo.
Ðến phần nhuận bút của hai bên, các anh chia tiền Cụ Hồ và tiền Ðông Dương ngân hàng chu đáo. Từ đó về sau, tôi không nghe thấy anh Tư kêu ca than vãn gì nữa, kể cả khi tôi ra Hà Nội năm 1954 gặp anh, anh cũng bỏ qua, mà còn chép cho tôi bài thơ “Vượt cổng trời” của anh để tặng tôi làm kỷ niệm./.
Nguồn Cà Mau: https://baocamau.vn/ky-niem-voi-truong-trung-hoc-tien-phong-a40035.html