Làm rõ tiêu chí miễn thuế giá trị gia tăng đối với hộ, cá nhân kinh doanh doanh thu thấp
Trong bối cảnh thực thi Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) từ ngày 1/7/2025, việc làm rõ các nội dung chi tiết liên quan đến mức doanh thu của hộ, cá nhân sản xuất, kinh doanh là cần thiết để bảo đảm sự thống nhất, minh bạch trong thực thi chính sách thuế.

Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2025.
Tại Khoản 25, Điều 5 Luật Thuế GTGT quy định miễn thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ của hộ, cá nhân sản xuất, kinh doanh có mức doanh thu hằng năm từ 200 triệu đồng trở xuống.
Bên cạnh đó, một số trường hợp khác cũng được miễn thuế như: Tài sản của tổ chức, cá nhân không kinh doanh; hàng dự trữ quốc gia do cơ quan có thẩm quyền bán ra; và các khoản thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.
Nhằm hướng dẫn cụ thể cách xác định doanh thu, Thông tư số 40/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính đã quy định rõ cách tính doanh thu tính thuế GTGT và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với hộ và cá nhân kinh doanh. Theo đó, doanh thu bao gồm toàn bộ khoản tiền từ bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, kể cả các khoản thưởng, hỗ trợ, chiết khấu, phụ thu, phụ trội, và cả các khoản bồi thường được hưởng trong kỳ tính thuế, không phân biệt đã thu hay chưa thu được tiền.
Tuy nhiên, Bộ Tài chính cho rằng, để đồng bộ với hệ thống pháp luật về quản lý thuế và tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, cần có quy định chi tiết về cách xác định mức doanh thu của hộ, cá nhân sản xuất, kinh doanh thuộc diện miễn thuế GTGT.
Việc ban hành quy định chi tiết nhằm hiện thực hóa nội dung đã được giao tại Luật Thuế GTGT, đồng thời bảo đảm tính đồng bộ giữa Luật Thuế GTGT với Luật Quản lý thuế. Việc này sẽ giúp cơ quan thuế và người nộp thuế có cơ sở áp dụng thống nhất, hạn chế tối đa các vướng mắc trong quá trình triển khai.
Tại Khoản 25, Điều 3 của dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế GTGT sửa đổi đang được xây dựng, nội dung quy định chi tiết về đối tượng không chịu thuế xác định như sau: Hàng hóa, dịch vụ của hộ, cá nhân sản xuất, kinh doanh có mức doanh thu hằng năm từ 200 triệu đồng trở xuống; tài sản của tổ chức, cá nhân không kinh doanh, không phải là người nộp thuế giá trị gia tăng bán ra; hàng dự trữ quốc gia do cơ quan dự trữ quốc gia bán ra; các khoản thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí. Trong đó, việc xác định mức doanh thu hằng năm của hộ, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Theo Bộ Tài chính, về mặt pháp lý, quy định này đảm bảo tính thống nhất với Luật Thuế GTGT và các quy định pháp luật có liên quan, không xung đột với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Về kinh tế - xã hội, việc xác định rõ ngưỡng doanh thu không làm phát sinh thêm chi phí tuân thủ hay thủ tục hành chính đối với người nộp thuế. Đồng thời, quy định không gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân.
Việc quy định chi tiết trong dự thảo Nghị định là giải pháp phù hợp với thẩm quyền được Quốc hội giao. Việc bổ sung, làm rõ cách xác định doanh thu sẽ giúp bảo đảm tính thực thi, minh bạch và thống nhất trong quản lý thuế GTGT đối với hộ, cá nhân kinh doanh có quy mô nhỏ.