Làm rõ tiêu chí, quy trình, thủ tục, quy mô của khoản vay đặc biệt
Sáng 29/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ Chín, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh, Quốc hội thảo luận ở Hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.

Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh điều hành phiên họp. Ảnh: Hồ Long
Quy định về nguyên tắc xác định hiệu lực ưu tiên của hợp đồng bảo đảm
Cho ý kiến về dự thảo luật, nhiều ý kiến ĐBQH cho rằng, việc luật hóa cơ chế thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng là điểm mới tích cực, góp phần tháo gỡ các vướng mắc lớn trong xử lý tài sản bảo đảm, giảm tỷ lệ nợ xấu và nâng cao khả năng thu hồi nợ.
Theo ĐBQH Thái Quỳnh Mai Dung (Vĩnh Phúc), để tiếp tục tạo được niềm tin của người gửi tiền và huy động nguồn lực, tạo khí thế cũng như xung lực mới cho phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, đại biểu nhất trí cần có quy định để xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm.

ĐBQH Thái Quỳnh Mai Dung (Vĩnh Phúc) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Trên thực tế, các quy định liên quan đến thu giữ tài sản bảo đảm không phải là quy định mới và việc luật hóa nội dung này phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Về quyền thu giữ tài sản bảo đảm, ĐBQH Nguyễn Hải Nam (TP. Huế) cho rằng, nội dung sửa đổi Điều 198 của Luật hiện hành lần này sẽ cho phép ngân hàng trực tiếp thu giữ tài sản bảo đảm của cá nhân, tổ chức. Đại biểu nhấn mạnh, khi thực hiện quy định này cũng cần bảo đảm tính nhân văn, nhân quyền theo đúng Điều 106 của Hiến pháp vì trong thực tế cũng có những trường hợp có gia cảnh thật sự khó khăn.

ĐBQH Nguyễn Hải Nam (TP. Huế) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Mặt khác, ĐBQH Nguyễn Hữu Thông (Bình Thuận) cho rằng, quy định trong dự thảo luật chưa làm rõ cơ chế bảo vệ quyền lợi của bên bảo đảm khi có khiếu nại hoặc tranh chấp phát sinh; chưa quy định rõ khả năng tạm hoãn hoặc hủy việc thu giữ trong trường hợp có dấu hiệu sai phạm hoặc đang tranh chấp quyền sở hữu.
Bên cạnh đó, khoản 5 Điều 198a quy định trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ, đại diện UBND cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm.

ĐBQH Nguyễn Hữu Thông (Bình Thuận) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông cho rằng, quy định này chưa phù hợp với Luật Tổ chức chính quyền địa phương, vì trong luật này không giao trách nhiệm trên cho cấp xã và cán bộ cấp xã cũng không có thẩm quyền cưỡng chế dân sự.
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông đề nghị, chỉ nên cho phép thu giữ tài sản bảo đảm trong các trường hợp bên bảo đảm có thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng, tài sản không bị tranh chấp và đang trong diện hợp pháp thu giữ. Đồng thời, cần quy định cụ thể cơ chế giám sát, quyền khiếu nại của bên bảo đảm.
Về kê biên tài sản đang là tài sản bảo đảm, một số ý kiến cho rằng, việc xác định thứ tự ưu tiên giữa nghĩa vụ tín dụng và nghĩa vụ thi hành án theo bản án dân sự là hợp lý. Song, quy định này có thể phát sinh mâu thuẫn trong thực tế thi hành án nếu không xác định rõ hiệu lực của hợp đồng bảo đảm và thời điểm phát sinh quyền ưu tiên.
Vì vậy, đề nghị dự thảo luật cần bổ sung quy định về nguyên tắc xác định hiệu lực ưu tiên của hợp đồng bảo đảm và cơ chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức tín dụng để bảo đảm xử lý minh bạch, tránh tranh chấp.
Bổ sung cơ chế giám sát, công khai
Về việc quy định lãi suất cho vay đặc biệt là 0%/năm (sửa đổi khoản 1 Điều 193 Luật hiện hành), dự thảo luật quy định “Ngân hàng Nhà nước quyết định cho vay đặc biệt có tài sản bảo đảm, không có tài sản bảo đảm đối với tổ chức tín dụng. Tài sản bảo đảm của khoản vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là 0%/năm”.
Các đại biểu đánh giá, đây là một chính sách hỗ trợ mạnh mẽ, thể hiện rõ vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc hỗ trợ các tổ chức tín dụng đang trong tình trạng đặc biệt khó khăn, nhằm giữ vững an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng.

Các đại biểu dự phiên họp. Ảnh: Hồ Long
“Tuy nhiên, quy định mức lãi suất 0%/năm mà không gắn với điều kiện áp dụng cụ thể có thể dẫn tới lạm dụng chính sách, tạo ra rủi ro, làm sai lệch môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng và tăng áp lực lên ngân sách quốc gia”, đại biểu Nguyễn Hữu Thông nêu vấn đề.
Hơn nữa, quy định này có khả năng mâu thuẫn với nguyên tắc thị trường, gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn lực nhà nước nếu không có cơ chế kiểm soát. Do đó, đại biểu Nguyễn Hữu Thông đề nghị, cần quy định cụ thể trong dự thảo luật là: “Lãi suất 0% chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng thuộc diện kiểm soát đặc biệt, tái cơ cấu bắt buộc hoặc có ảnh hưởng hệ thống đến sự ổn định tài chính quốc gia”. Đồng thời, bổ sung cơ chế giám sát, công khai và đánh giá hiệu quả việc sử dụng nguồn vay đặc biệt này.
Cùng quan điểm, đại biểu Nguyễn Hải Nam tán thành với quy định như dự thảo luật; đồng thời, đề nghị cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn nữa về tiêu chí, điều kiện, quy trình, thủ tục và quy mô, định mức của khoản vay này như thế nào? Cùng với đó, phải bảo đảm cân đối tài chính, nguồn lực của Ngân hàng Nhà nước.
Dự thảo Luật cũng phân cấp, phân quyền cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Song, đây là hoạt động cho vay và có thể sẽ có rủi ro tín dụng, vì vậy, đại biểu Nguyễn Hải Nam cho rằng, cần làm rõ quyền này có kèm với trách nhiệm hay không và trách nhiệm này thuộc về cá nhân hay tổ chức, tập thể?
Phát biểu kết luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu rõ, qua thảo luận, các ĐBQH cơ bản thống nhất về sự cần thiết ban hành luật; các ý kiến đã phân tích, đánh giá cụ thể, góp ý thêm các nội dung quan trọng trong dự thảo luật.
Các ĐBQH thống nhất luật hóa 3 chính sách tại Nghị quyết số 42 của Quốc hội để tạo cơ sở pháp lý ổn định, lâu dài cho xử lý nợ xấu, góp phần bảo đảm an toàn tài chính ngân hàng. Một số đại biểu đề nghị tiếp tục rà soát tính hợp hiến, hợp pháp, sự thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị cơ quan soạn thảo phối hợp chặt chẽ với cơ quan thẩm tra và các cơ quan liên quan khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu, giải trình thấu đáo ý kiến của ĐBQH, hoàn thiện dự thảo luật, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi trình Quốc hội thông qua.