Lễ hội Khai hạ của người Mường - Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Lễ hội Khai hạ dân tộc Mường hay còn gọi là lễ hội Khuống mùa, Thuống tôồng là lễ hội truyền thống đã có từ rất lâu đời và là lễ hội dân gian lớn nhất của người Mường, đặc biệt ở bốn vùng Mường lớn của tỉnh là Bi, Vang, Thàng, Động. Lễ hội Khai hạ của người Mường Hòa Bình đã được Bộ VH-TT&DL công bố quyết định là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Thầy mo làm lễ cúng rước kiệu Quốc Mẫu Hoàng Bà tại Lễ hội Khai hạ Mường Bi (Tân Lạc).
Đây là lễ hội gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, mang nhiều dấu ấn của nền văn minh Việt cổ; là hoạt động văn hóa - tín ngưỡng không thể thiếu của đồng bào người Mường ở Hòa Bình mỗi dịp xuân về. Lễ hội mang ý nghĩa tôn kính các vị thần linh, tưởng nhớ những người đã có công lập đất, lập mường và cầu mong vạn vật phát triển thuận lợi, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, những điều tốt đẹp đến với người dân, xóm bản.
Tùy từng vùng Mường mà lễ hội được tổ chức vào các ngày và địa điểm thực hiện nghi trình, nghi thức có sự khác nhau. Đối với Lễ hội Khai hạ Mường Bi (Tân Lạc) được tổ chức vào ngày mồng 7, 8 tháng giêng hàng năm (tức ngày 6, ngày 7 tháng tư theo lịch Mường Bi) tại miếu thờ xóm Lũy, xã Phong Phú, nơi gắn liền với truyền thuyết về Quốc Mẫu Hoàng Bà và Tam vị Tản Viên Sơn Thánh. Đối với lễ hội Khai hạ Mường Vang được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng tại miếu Áng Ka và tại mái đá làng Vành, xã Yên Phú (Lạc Sơn) vào ngày mồng 7 tháng giêng. Lễ hội Khai hạ Mường Thàng (Cao Phong) tổ chức vào ngày mồng 5 - 6 tháng giêng tại miếu Cả, xã Dũng Phong. Đối với phần lễ ở lễ hội Mường Động (Kim Bôi) tổ chức ngày mùng 3 tháng 5 âm lịch tại miếu Mường Chanh, xã Vĩnh Đồng. Mỗi địa điểm nơi diễn ra lễ hội đều gắn liền với lịch sử của các vị thần là người có công lập đất, lập mường.
Lễ hội Khai hạ được tổ chức với nhiều nghi trình, nghi thức độc đáo tạo nên nét riêng có. Đây là lễ hội có quy mô lớn trong vùng, với nhiều thành phần tham gia ở cả phần lễ và phần hội. Vì vậy công tác chuẩn bị cho lễ hội Khai hạ đều có sự phân công, cắt cử mọi việc rất cụ thể, chi tiết tới từng bộ phận, từng thành viên tham gia để khi thực hiện công việc được thuận lợi, suôn sẻ. Ngay từ những ngày cuối năm âm lịch, Ban Tổ chức lễ hội Khai hạ đã họp bàn phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên, từng công việc từ dọn dẹp vệ sinh địa điểm diễn ra phần lễ, địa điểm diễn ra phần hội, vệ sinh kiệu rước, chuẩn bị trang phục, tập luyện đội văn nghệ, đội chiêng và tìm chọn lực lượng tham gia rước kiệu.
Được chia làm hai phần gồm phần lễ và phần hội; trong đó phần lễ là hoạt động thờ cúng Thành Hoàng với các nghi trình, nghi thức ở mỗi vùng Mường có sự khác nhau. Xưa kia thì ở cả 4 Mường lớn và một số huyện khác đều có nghi thức rước kiệu hoặc cúng tại mó nước và xin rước nước; cúng tại ruộng xin rước mạ hoặc cúng tại ruộng để xin làm lễ cày, bừa đầu tiên… nhưng ngày nay do nhiều nguyên nhân nên phần rước kiệu chỉ còn ở lễ hội ở Mường Bi và Mường Thàng; cúng tại ruộng để xin làm lễ cày, bừa đầu tiên chỉ còn diễn ra tại huyện Tân Lạc và huyện Lạc Sơn. Phần hội là các hoạt động vui chơi, thi các trò chơi dân gian, biểu diễn các hình thức nghệ thuật dân gian. Được tổ chức ngay sau khi kết thúc phần lễ chức với các trò chơi dân gian như: hội đánh Chiêng, hội ném còn, thi bắn nỏ, giã gạo, đánh cù, đánh mảng, kéo co, thi hát đối, hát sắc bùa hay còn gọi là "séc púa", thi các mâm cơm, trình diễn trang phục, thi người đẹp xứ Mường và phần thi đấu các môn thể thao…
Lễ hội có lịch sử lâu đời là nơi kết tinh, hội tụ nhiều di sản văn hóa, lịch sử. Trải qua các thế hệ, tuy có những lúc thăng, trầm nhưng đến nay, lễ hội đã được cộng đồng dân tộc Mường khôi phục ở nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh. Lễ hội đã phản ánh nhiều khía cạnh lịch sử của các vùng Mường lớn xưa ở Hòa Bình. Qua lễ hội và những di tích gắn với lễ hội, người ta có thể tìm hiểu được một phần quan trọng của lịch sử địa phương trong tập quán, phong tục của người Mường với những nghi trình, nghi thức đã có từ lâu đời. Có thể khẳng định, Lễ hội Khai Hạ dân tộc Mường chứa đựng trong đó nhiều giá trị di sản văn hóa có giá trị.