Lịch sử chùa Phúc Quang - Đan Tràng qua tư liệu văn bia Hán - Nôm

NSGN - Chùa Phúc Quang tọa lạc tại thôn Đan Tràng, xã Đức Chính, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương (nay xã Tuệ Tĩnh, thành phố Hải Phòng). Huyện Cẩm Giàng cổ có tên là huyện Thiện Tai, sau đổi thành huyện Đa Cẩm; đến thời Trần gọi là huyện Cẩm Giang thuộc về lộ Hồng Châu, xứ Hải Dương.

1. Vị trí địa lý, lịch sử

Đời Lê phân lộ Hồng Châu ra thành phủ Thượng Hồng và phủ Hạ Hồng, huyện này thuộc về phủ Thượng Hồng. Thời Lê Trịnh, vì kiêng húy Uy Nam Vương Trịnh Giang nên đọc kỵ húy thành Cẩm Giàng. Triều Nguyễn đổi tên phủ Thượng Hồng thành phủ Bình Giang, huyện Cẩm Giàng vẫn thuộc địa giới phủ này.

Trong cuốn Địa dư huyện Cẩm Giàng (1931), tri huyện Cẩm Giàng Ngô Vi Liễn viết: Tổng Đan Tràng nằm về phía Đông huyện Cẩm Giàng, có tám xã: Chi Các, Đan Tràng, Địch Hòa, Địch Tràng, Đồng Niên, Hàn Trung, Lôi Xá và Xuân Đài. Trong đó thông tin về xã Đan Tràng có nói: Đông giáp xã Uyên Đức và An Trang, Tây giáp xã Hoàng Gia, Nam giáp xã Lôi Xá, Bắc giáp Xã Văn Thai. Diện tích 435 mẫu, 8 sào, 3 thước ta. Đinh có 315 suất; nam, phụ, lão, ấu tổng 1.016 người. Về hành chính có ba thôn: An Lãng, Tự Trung và Uyển Vũ, mỗi thôn lại chia ra thành 4 giáp. Mục đình, chùa nói: “Đình hàng xã thờ một vị là con một ông quan đời nhà Lê, đến ở xã Đan Tràng, ông quan ấy lấy vợ là con gái họ Hoàng người thôn An Lãng mà sinh ra ngài. Khi ngài 18 tuổi, gặp khi trong nước có giặc, ngài xin đi đánh, đánh tan giặc, ngài lại về ở xã Đan Tràng; khi ngài hóa thì được phong là Thượng đẳng phúc thần. Còn ba thôn mỗi thôn có một cái đình và hai cái chùa”(2).

Tháng 3 năm 1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (khóa I) quyết định thành lập các xã mới. Dưới sự lãnh đạo của Ủy ban kháng chiến huyện Cẩm Giàng, căn cứ vào tình hình, đặc điểm, dân số, ruộng đất đã quyết định thành lập xã mới lấy tên là Đức Chính, bao gồm 4 xã của tổng Đan Tràng, đó là: Đan Tràng, Địch Tràng, Lôi Xá, Xuân Đài và một xã Hảo Hội thuộc tổng Lai Cách. Trong xã cũ có các thôn nhỏ, cụ thể: xã Đan Tràng gồm 3 thôn Yển Vũ, Tự Trung và An Lãng.

Hòa bình lập lại năm 1954, xã Đức Chính gồm 7 thôn, đó là: Yển Vũ, Đan Tràng, Địch Tràng, An Lãng, Xuân Kiều, Lôi Xá, Hảo Hội.

Ngày 10 tháng 9 năm 2019, UBND tỉnh Hải Dương ký quyết định số 3140/QĐ-UBND về việc sáp nhập 2 thôn An Lãng và Tự Trung thành thôn Đan Tràng.

Vườn bia chùa Phúc Quang

Vườn bia chùa Phúc Quang

2. Niên đại khởi tạo và quá trình trùng tu di tích

Về niên đại khởi tạo của chùa Phúc Quang - Đan Tràng hiện nay vẫn chưa xác định được chính xác. Tuy nhiên, ta thấy vùng đất này nằm trong mạch nguồn văn hóa truyền thống Phật giáo xứ Đông, thấm đẫm tinh thần dòng thiền Trúc Lâm thời Trần, chính vì vậy từ rất sớm nơi đây đã là mảnh đất màu mỡ cho tư tưởng Phật giáo đâm chồi nảy lộc và hòa nhập cùng tín ngưỡng dân gian bản địa.

Hiện tại vườn bia chùa Phúc Quang vẫn còn lưu giữ khá nhiều bia đá cổ, trong đó các bia có niên đại lần lượt là: Chính Hòa 20 (1699), Vĩnh Thịnh 4 (1708), Vĩnh Thịnh 8 (1712), Vĩnh Thịnh 12 (1716), Vĩnh Thịnh 14 (1718), Bảo Thái 1 (1720), Hàm Nghi 1 (1885), (ngoài ra còn 3 bia mất chữ và một số bia còn lưu lạc ở nhiều nơi chưa quy tập về hết). Văn bia chùa Phúc Quang hầu hết có niên đại vào thời Lê Trung Hưng (cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII), thời Nguyễn chỉ có 1 bia trên tổng số 10 bia hiện còn, 3 bia mất chữ không đọc được niên đại chính xác, tuy nhiên thông qua hoa văn trán bia, có thể ước đoán cũng được tạo tác vào thời Lê Trung Hưng. Nội dung các bia đều ghi chép lại những công việc hưng công tạo tác các công trình mới hay trùng tu lại các hạng mục kiến trúc cũ của chùa Phúc Quang. Như vậy trong khoảng 30 năm (từ 1699 đến 1720), tại ngôi cổ tự này liên tục diễn ra các hoạt động Phật sự, thu hút số lượng đông đảo tín đồ Phật tử cùng nhân dân địa phương tham gia.

Văn bia sớm nhất hiện còn là bia Trùng tạo Phúc Quang tự các 重造福光寺閣 được dựng vào mùa đông năm Chính Hòa thứ 20 (1699) nói về việc dựng lại gác chuông trên ngọn Đính Sơn vào năm Tân Mùi (1691), tạc tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn năm Bính Tý (1696), tạc tượng La-hán năm Kỷ Mão (1699). Tấm bia này là ghi chép tổng kết lại đại công trình hưng công trong suốt 9 năm ròng rã của chùa Phúc Quang dưới sự đốc suất của trụ trì đương thời là Thiền sư Vũ Văn Khang tự Huyền Minh người trong xã, cùng toàn thể các vị thiện sãi, tín vãi ba thôn An Lãng, Tự Trung, Yển Vũ. Có thể nói đây là một công trình lớn, được nhân dân rất ủng hộ, theo thống kê trong bia số lượng tín chủ công đức tiền, gạo có hơn 300 vị, tiêu biểu như các ông Vũ Khang Lương cúng 16 quan tiền, 55 thăng gạo; ông Nguyễn Nhân Hảo cúng 16 quan tiền, 55 thăng gạo; ông Nguyễn Nhân Chiêu cúng 4 quan tiền làm gác chuông; ông Trần Công Nghi cúng 4 quan năm mạch tiền, v.v.

Văn bia năm Vĩnh Thịnh 4 (1708) nói về việc dựng 3 gian nhà oản và đục một chiếc thống đá. Công việc bắt đầu vào mùa xuân năm 1708 và đến mùa đông năm đó hoàn thành. Công việc hưng công do Thiền sư Vũ Văn Khang tự Huyền Minh điều hành. Bia dựng vào tháng Chạp năm 1708, do giám sinh Quốc Tử Giám Nguyễn Danh Vọng soạn, người thôn Vũ Môn giữ tước Văn Hưng Nam là Nguyễn Tuấn Hoàng viết chữ.

Văn bia Trùng tu tạo Phúc Quang tự điện 重修造福光寺殿 dựng năm Vĩnh Thịnh 8 (1712) nói về việc bó đá xung quanh nền và làm bậc đá gian giữa tòa thượng điện. Như trong văn bia có miêu tả quang cảnh sau khi hoàn thành như sau: “Nay các vị hội chủ hưng công, dốc lòng làm việc thiện duyên, luôn lo nghĩ vun bồi nền phúc đức, liền đem của tư ra để bó đá nền chùa và xây bậc đá gian giữa. Thềm đá đẹp đẽ, chùa cảnh thấy rõ nguy nga; cột đá xung quanh, bốn bề tăng thêm tráng lệ. Nghĩ đến tòa thượng điện này: tường vách cao vọi, đốc mái nguy nga. Vị thế vững như âu vàng, bền bỉ cùng với càn khôn; vững bền như bàn thạch, trường tồn cùng trời đất”(3). Công trình được hoàn thành vào mùa hạ năm Vĩnh Thịnh 8 (1712) dưới sự chủ trì của sư trụ trì là Sa-di Tính Nhân, người đã “đem hết tâm huyết, đi tìm thợ đá, chế tác thềm đá, bậc hiên, khuyến hóa sãi vãi, thiện nam tín nữ trong hàng xã, cùng phát tâm Bồ-đề công đức tiền của, làm việc phúc đức”(4). Lần trùng tu này có số lượng thiện sãi, tín vãi đứng ra làm hội chủ hưng công rất nhiều, trong đó có thể kể ra: ông Trần Văn Quý 81 tuổi người thôn An Lãng, ông Nguyễn Văn Học 73 tuổi người thôn Yển Vũ, ông Trần Văn Trượng 68 tuổi người thôn An Lãng, ông Trần Văn Ban 64 tuổi người thôn An Lãng, ông Nguyễn Minh Bài 63 tuổi người thôn Thời Trung, v.v. Tổng cộng hội chủ và người công đức có gần 400 vị.

Văn bia năm Vĩnh Thịnh 12 (1716) nói về việc dựng tòa thiêu hương, hậu điện và tô tượng thập điện minh vương. Trong văn bia, trụ trì chùa Phúc Quang đương thời là Thiền sư Vũ Viết Nghĩa tự Pháp Hồng hiệu Chân Minh có nói đến duyên khởi của cuộc hưng công này: “Nguyên xưa các vị Tổ sư của chùa tu tạo các pho tượng Phật để ở hậu đường, nhưng nay thấy nơi đó ẩm thấp luôn, vì vậy mới hô hào nhân dân sửa sang điện Phật, thiêu hương. Nay đã hoàn thành, kính rước tượng Phật nhập điện, tượng thập điện Diêm Vương bài trí tại hai bên nhà thiêu hương. Nhân việc này mới khắc bia ghi nhớ để cho người đời sau biết vậy”(5). Lần trùng tu này rất lớn, số lượng hội chủ hưng công và thiện sãi tín vãi công đức có hơn 500 vị. Lần trùng tu này không chỉ bó hẹp trong phạm vi bốn thôn của xã Đan Tràng như trước mà số lượng tín chủ mở rộng ra một số thôn xã thuộc huyện Gia Lộc như Đào Xá, Bái Xuyên, Thượng Bì... và một số xã thôn thuộc huyện Lương Tài xứ Kinh Bắc.

Hai văn bia năm Vĩnh Thịnh 14 (1718), Bảo Thái 1 (1720) đều nói về việc tạc tượng tại nhà hậu điện do trụ trì là thiền sư Vũ Viết Nghĩa tự Pháp Hồng hiệu Chân Minh đứng ra kêu gọi thiện sãi, tín vãi hưng công tạc tượng để thờ trong nhà hậu. Tuy nhiên trong bia không nói rõ tạc tượng gì nên không thể liệt kê chính xác được. Nhưng đây cũng là những cuộc hưng công rất lớn, đặc biệt là lần hưng công tạc tượng năm 1718, số lượng hội chủ, tín chủ công đức hơn 300 vị, năm 1720 gần 100 vị công đức.

Như vậy, trải qua nhiều đời trụ trì cùng nhân dân Phật tử tham gia kiến thiết mở mang, đến năm 1720 chùa Phúc Quang - Đan Tràng bao gồm các hạng mục công trình kiến trúc như sau: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hậu điện, tả hữu hành lang, điện Đế-thích giáng sinh, gác chuông, nhà oản, kết hợp lại thành mô hình kết cấu nội công ngoại quốc như các ngôi chùa lớn thường thấy thời Lê Trung Hưng.

Trong các văn bia đều miêu tả quanh cảnh chùa Phúc Quang - Đan Tràng là nơi danh lam cổ tích nổi tiếng một vùng. Như trong văn bia năm 1708, giám sinh Quốc Tử Giám Nguyễn Danh Vọng nói: “Mến nay có chùa Phúc Quang là chốn danh lam cổ tích. Quy mô rộng lớn, khác riêng ngoài thế giới ba nghìn; lầu gác nguy nga, trông tựa thể tiên cung ngọc điện”(6). Trong văn bia năm 1716, sau khi hoàn thành việc dựng tòa hậu điện, thiêu hương, tạc tượng thập điện, trụ trì bản tự Thiền sư Vũ Viết Nghĩa tự Pháp Hồng viết rằng: “Lại nói về cảnh trí chùa Phúc Quang đây: đằng trước có điện Phật trấn giữ, đằng sau có đền thờ thần bảo vệ, sông ngòi uốn khúc bao quanh tả hữu, gò đống lớn nhỏ thấp thoáng đâu đây, thật đúng là cảnh thần tiên trên cõi trời vậy. Còn nói về kiến trúc đẹp đẽ trong chùa thì chuông trống treo tầng trên, khánh đồng mõ gỗ bày tầng dưới, mười tám vị La-hán đứng ngồi nghiêm trang, trăm vạn vị Phật chắp tay nhìn xuống, đúng thật là nơi tụ hội của bậc đế vương”(7). Qua đó có thể thấy đây là công trình văn hóa tâm linh được kiến tạo dựa trên nhân tài vật lực của toàn thể nhân dân ba thôn An Lãng, Thời Trung, Yển Vũ của xã Đan Tràng xưa.

Tuy nhiên trải qua 160 năm lịch sử, dưới sự tác động của thiên tai khắc nghiệt cùng bao cuộc chiến tranh tàn phá, đến năm Hàm Nghi nguyên niên 1885, chùa Phúc Quang đứng trước nguy cơ trở thành phế tích, như trong văn bia, Sa-môn trụ trì Thích Thông Chúc, Thích Thông Nguyên soạn có viết: “Chùa Phúc Quang, xã Đan Tràng, tổng Đan Tràng, huyện Cẩm Giàng, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Nguyên chùa này có điện Đế-thích giáng sinh, thượng điện, tiền đường, hậu đường, hành lang tả hữu nhiều năm trước nước lụt lâu ngày, gió lay mưa ẩm, xà cột nghiêng đổ, tòa tượng mục nát”(8). Như vậy đến thời điểm 1885, chùa Phúc Quang đã không còn được quy mô như trước. Đứng trước tình hình đó, trụ trì cùng nhân dân tiến hành hưng công trùng tu lại chùa. Lần trùng tu này có sự tham gia đóng góp của các vị như: ông Nguyễn Phúc Chấn thôn Yển Vũ cúng 20 quan tiền; ông Trần Văn Cẩm thôn An Lãng cúng 30 quan tiền; Nguyễn Văn Quản, vợ Trần Thị Tình hiệu Diệu Tâm, cúng 30 quan tiền; Nguyễn Thị Hòa hiệu Diệu Khoa cúng 30 quan tiền; Trần Văn Tý (Tử), vợ Trần Thị Rối hiệu Diệu Ninh, tiền 30 quan.

Thôn Tự Trung: Nguyễn Quý công tự Trực Thành, vợ Nguyễn Thị Đọi hiệu Diệu Trản, tiền 30 quan, lại cúng tiền 4 quan, ruộng 12 thước 5 thốn cộng 3 người 2 sào rưỡi ruộng. Thập lý hầu Nguyễn quý công tự Phúc Nguyên, vợ Nguyễn Thị Quản hiệu Diệu Trinh, tiền 30 quan, lại cúng tiền 5 quan, ruộng 12 thước 5 thốn, hai thửa tại xứ Đống Vẹt.

Thôn Yển Vũ: Vũ quý công hiệu Văn Đào, vợ Nguyễn Thị Ghẻ hiệu Diệu Canh, tiền 30 quan, lại cúng 5 quan, ruộng 12 thước 5 thốn. Nguyễn húy Chúc, vợ lẽ Nguyễn Thị Tịnh hiệu Diệu Lương, tiền 30 quan, lại cúng tiền 40 quan, ruộng hai thửa 6 sào tại xứ Mả Vàng.

Năm 1936, chùa Phúc Quang lại được tiến hành trùng tu thêm một lần nữa, tuy nhiên vẫn trên cơ sở của lần trùng tu năm 1885 và có thay một số cấu kiện gỗ đã mục nát. Dấu tích lần trùng tu này còn lưu lại tên người cúng tiến cột gỗ mà nó hiện vẫn còn.

Từ đây có thể tổng hợp các lần trùng tu, kiến thiết của chùa Phúc Quang - Đan Tràng qua tư liệu văn bia như sau:

Thông qua phân tích tư liệu văn bia tại chùa hiện còn, có thể thấy đến khoảng thế kỷ XVI - XVII, chùa Phúc Quang - Đan Tràng đã trở thành trung tâm văn hóa tín ngưỡng lớn của một vùng phía Đông huyện Cẩm Giàng, sức ảnh hưởng lan rộng ra khắp tổng Đan Tràng chứ không bó hẹp trong phạm vi một làng như phần lớn các ngôi chùa khác. Tuy nhiên, vạn vật đều biến đổi theo quy luật vô thường, chùa Phúc Quang cũng không ngoài quy luật đó. Quy mô chùa hiện nay chúng ta còn thấy là kết quả của các lần trùng tu năm 1885 và 1936. Tuy nhiên, qua tư liệu văn bia chúng ta có thể tưởng tượng được phần nào về tổng thể quy mô kiến trúc chùa Đan Tràng tại thời điểm huy hoàng nhất vào giai đoạn cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII.

3. Các đời trụ trì

Trải qua thời gian khá dài bị đứt đoạn về truyền thừa, cho nên không thể liệt kê cụ thể lịch đại truyền đăng tại chốn tổ Phúc Quang - Đan Tràng. Qua tư liệu khảo sát trong nhân dân, được biết chùa đã trải qua 8 đời trụ trì, sau khi các sư qua đời được nhân dân quy tập vào tháp, lai lịch đều đã thất truyền, chỉ còn pháp danh trong các tháp đó là các vị: Thống Tướng, Nguyên Trì, Nguyên Huy, Toa Chiến, Thân Chúc, Thông Chi, Tâm Mai, Tâm Thực (Trần Văn Thức). Trong đó sư cụ Thống Tướng được suy tôn là sư tổ, giỗ Tổ hằng năm vào ngày mùng 5 tháng 9 âm lịch. Trong số các vị đó, chỉ có đời cuối cùng là sư cụ Tâm Thực có tiểu sử rõ ràng như sau:

Sư cụ Thích Tâm Thực thế danh Trần Văn Thức, sinh năm Tự Đức Bính Thìn (1876), xuất gia đầu Phật năm 11 tuổi. Năm 34 tuổi dân Đan Tràng thỉnh ngài về trụ trì chốn Tổ Phúc Quang. Đầu năm 1945, sư cụ tham gia hoạt động cách mạng, bí mật nuôi giấu cán bộ tại chùa. Ngày 25 tháng Giêng năm 1947, sư cụ bị giặc bắt tại hầm bí mật gần chùa. Sau khi tra tấn dã man mà không khai thác được gì, chúng đã đưa sư cụ ra nghè Đan Tràng bắn chết. Sư cụ hưởng thọ 71 tuổi. Căn cứ vào quá trình tham gia cách mạng của sư cụ Thích Tâm Thực - Trần Văn Thức, chính quyền địa phương đã lập hồ sơ đề nghị các cơ quan chức năng xem xét truy tặng cho cụ danh hiệu liệt sĩ(9).

Ngoài thông tin do nhân dân cung cấp, qua tư liệu văn bia, chúng ta còn có thể liệt kê ra một số đời trụ trì tại chốn Tổ Phúc Quang - Đan Tràng như sau:

- Giai đoạn 1691-1708: Trụ trì là Thiền sư Vũ Văn Khang tự Huyền Minh. Trong văn bia 1708 có nói, ngài từng giữ chức Thập lý hầu và từng làm việc trong phủ chúa, về sau hồi tâm hướng thiện, xả bỏ cơ nghiệp để đền đáp tứ ân, trở về trụ trì chốn Tổ Phúc Quang. Trong giai đoạn ngài trụ trì đã để lại rất nhiều di sản quý giá cho chốn Tổ như: hưng công xây gác chuông năm Tân Mùi niên hiệu Chính Hòa 12 (1691), tạc tượng Quan Âm năm Bính Tý (1696), tạc tượng La-hán năm Kỷ Mão (1699), hưng công xây dựng ba gian nhà oản, đục một chiếc thống đá lớn năm Nhâm Tý (1708).

- Giai đoạn 1712: Trụ trì là Sa-di tự Tính Nhân, tổ chức khuyến hóa bó đá thềm nhà tiền đường, làm bậc tam cấp gian giữa.

- Giai đoạn 1716-1720: Trụ trì là Thiền sư Vũ Viết Nghĩa tự Pháp Hồng hiệu Chân Minh. Ngài là người thôn An Lãng, sau khi trở về trụ trì bản tự đã khuyến hóa nhân dân xây nhà hậu điện, thiêu hương, tô tượng thập điện vào năm 1716; hai lần kêu gọi tạc tượng Phật thờ ở nhà hậu điện vào các năm 1718 và 1720.

- Giai đoạn 1885: Trụ trì là các vị Sa-môn Thích Thông Chúc, Thích Thông Nguyên, tiến hành đại trùng tu lại chốn Tổ Phúc Quang - Đan Tràng, để lại quy mô như hiện nay.

4. Kết luận

Như vậy có thể tổng kết lại rằng chùa Phúc Quang thôn Đan Tràng là một ngôi chùa có lịch sử lâu đời, đến thế kỷ XVII, XVIII nơi đây đã trở thành trung tâm văn hóa tín ngưỡng tôn giáo lớn của vùng tổng Đan Tràng nói riêng và huyện Cẩm Giàng nói chung. Tuy nhiên trải qua biến động của lịch sử và sự bào mòn của thời gian, các hạng mục công trình kiến trúc của chùa đã không còn như xưa nữa. Nhưng chắc chắn rằng với những di sản quý giá mà chùa Phúc Quang hiện còn lưu giữ được, trong tương lai không xa, sẽ lại nhìn thấy quang cảnh chốn Tổ Phúc Quang - Đan Tràng đẹp đẽ gấp bội mà không kém phần trang nghiêm như thuở nào.

Hà Nội, ngày 6-10-2025

-------------------------------------

(1)Sau sáp nhập thuộc xã Tuệ Tĩnh, thành phố Hải Phòng. Chùa Phúc Quang hiện nay do Đại đức Thích Quảng Tú trụ trì.

(2)Ngô Vi Liễn, Địa dư huyện Cẩm Giàng, nhà in Lê Văn Tân, Hà Nội,1931, tr.37.

(3)茲興功會主等,善緣誌慕,福址思陪,爰發家貲,葺增舊址。石堦週密,觀一殿之巍峨;石柱列羅,盼四圍之壯麗。想是殿也,宮牆嚴邃,梵宇崢嶸。勢奠金甌,等乾坤而不老;宗強磐石,與天地而長存。

(4) 一住持本寺禪林釋子沙彌性仁,篤誌慕情,搜求石匠,殿砌石堦,勸化本社仕尾善男信女,共發家財,同心資福。

(5) 原禪僧奉造佛像置在後堂,奈嫌些處暽覿漏卑,以故同聲共發...燒香已成,奉迎佛入殿...冥王十像班在燒香左右。因勒碑刻銘以記,使後人求監焉。

(6)睠惟,勝境名藍有名福光禪寺。規模軒豁, 殊尘世之三千;棟宇巍峩,別占樓臺之十二。

(7)語其勝景,則古殿峙於前,靈祠翼於後,大江小溪左右回旋,高山孔阜東西森爽,宛然天上之樓臺也。語其壯觀。則鼓鍾間於上,磬鐸排於下,十八羅漢侍坐森嚴,億萬補陀拱衛還向,儼然北辰之居所也。

(8)海陽省,平江府,錦江縣,丹場總,丹場社,福光寺。是寺也,殿帝釋降生,上殿,前堂,後堂,左右行郎縁於上上年水潦累日,風撞雨暗,梁棟傾搖,象座頹弊。

(9)Theo tư liệu điền dã do nhà chùa và nhân dân cung cấp.

(NSGN - 356)

Trần Tất Quyến/Nguyệt san Giác Ngộ

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/lich-su-chua-phuc-quang-dan-trang-qua-tu-lieu-van-bia-han-nom-post77865.html