Lồng ghép giới trong Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
Ở Việt Nam, trung bình mỗi năm có hơn 80 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó tỷ lệ lao động nữ (LÐN) chiếm khoảng 35 đến 40% tổng số lao động di cư và có xu hướng gia tăng.
Ở Việt Nam, trung bình mỗi năm có hơn 80 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó tỷ lệ lao động nữ (LÐN) chiếm khoảng 35 đến 40% tổng số lao động di cư và có xu hướng gia tăng.
Thị trường trọng điểm truyền thống tiếp nhận lao động Việt Nam là Nhật Bản, Ðài Loan (Trung Quốc). Ngoài ra, A-rập Xê-út và Ma-lai-xi-a cũng là hai nước có số lượng phụ nữ Việt Nam di cư lao động nhiều hơn nam giới.
Các chuyên gia về lao động phân tích, khi tham gia vào thị trường lao động nước ngoài, LÐN Việt Nam có cơ hội nâng cao quyền năng, độc lập về kinh tế. Tuy nhiên, phụ nữ cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, rào cản hơn so với lao động là nam giới cả trước, trong và sau khi di cư lao động. Trước khi đi lao động nước ngoài, LÐN bị hạn chế trong tiếp cận thông tin tuyển dụng, hạn chế trong việc được đào tạo an toàn, hiệu quả và di cư hợp pháp. Số liệu tại hội thảo khoa học quốc tế “Di cư và đa văn hóa” cho biết, chỉ có 7% số người lao động (NLÐ) di cư Việt Nam được tham gia các lớp bồi dưỡng về kiến thức cần thiết trước khi ra nước ngoài làm việc. Khi ra nước ngoài, LÐN chịu điều kiện lao động và sinh sống khó khăn, nặng nhọc, nguy cơ cao về hành hạ, bóc lột, bị xâm hại tình dục, lây nhiễm các bệnh xã hội; gặp khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ pháp lý. Tất cả những vấn đề nêu trên dẫn đến gia tăng căng thẳng, nảy sinh tâm lý cô đơn, sợ hãi. Sau khi lao động trở về, tái hòa nhập cộng đồng, LÐN tiếp tục gặp khó khăn trong tìm kiếm cơ hội việc làm và phát huy tay nghề. Có đến 70% số kỹ năng LÐN được trang bị ở nước di cư lao động ít được áp dụng tại quê nhà; nguy cơ tan vỡ gia đình, lý do là sự vắng mặt lâu ngày của người mẹ, người vợ trong gia đình.
Dự thảo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) đang quy định về phạm vi và đối tượng điều chỉnh liên quan đến NLÐ đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đã xuất hiện nhiều hình thức lao động nước ngoài không theo hợp đồng. Hiện, lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã phát sinh các hình thức lao động mới: NLÐ đi theo lời mời hoặc bảo lãnh của người nhà sang và sau đó ở lại lao động theo mùa vụ; du học (vừa học vừa làm); du lịch nhưng móc nối, bỏ trốn ở lại làm việc lao động theo hợp đồng nhưng sau đó phá hợp đồng, ra ngoài làm việc; lao động Việt Nam qua biên giới làm thuê theo mùa vụ ở các nước láng giềng. Các loại lao động nêu trên gặp nhiều rủi ro: không được bảo hộ hợp pháp, dễ bị lạm dụng sức lao động, rơi vào đường dây buôn bán, lừa đảo, dễ bị cảnh sát địa phương bắt giữ, gây khó khăn trong công tác quản lý NLÐ cả ở Việt Nam và quốc gia tiếp nhận lao động…
Nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của NLÐ theo hướng bình đẳng, dự thảo Luật cần bổ sung trách nhiệm của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa NLÐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Nhân viên nghiệp vụ thực hiện các nội dung hoạt động đưa NLÐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải có kiến thức về giới, năng lực giải quyết vấn đề giới của LÐN di cư. Bổ sung quyền và nghĩa vụ của NLÐ: quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nếu phát hiện nguy cơ đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự trong quá trình thực hiện công việc. Quyền được trở về nước hoặc thay đổi công việc trong trường hợp có vi phạm quyền lao động, quyền con người, đặc biệt trong trường hợp bị bạo lực. Quyền tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý và các dịch vụ xã hội, y tế, tâm lý, tại quốc gia nơi NLÐ làm việc. Quyền tiếp cận dịch vụ hỗ trợ việc làm và tạo việc làm sau khi trở về cũng như dịch vụ tái hòa nhập cộng đồng bình đẳng giữa nam và nữ. Bổ sung chính sách hỗ trợ NLÐ sau khi về nước như: hỗ trợ thông tin thị trường lao động, kết nối cung - cầu lao động, tạo điều kiện để NLÐ tìm kiếm việc làm, tạo nguồn lao động có chất lượng chuyên môn, kỹ thuật cho các đơn vị sử dụng lao động trong nước. Cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý, pháp lý đối với một số trường hợp đặc biệt như bị lạm dụng, bị bóc lột sức lao động, rơi vào đường dây ma túy, lừa đảo khi lao động ở nước ngoài, bị bạo lực, xâm hại… Bổ sung nhiệm vụ của Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước trường hợp NLÐ phải về nước trước thời hạn mà không phải do lỗi của NLÐ mà là nạn nhân của xâm hại, quấy rối tình dục, bạo lực giới, bóc lột sức lao động, dịch bệnh…
Đối tượng NLÐ làm việc không có quan hệ lao động đã được quy định là đối tượng áp dụng của Bộ luật Lao động năm 2019. Ngoài ra, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 cũng nêu rõ “Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa NLÐ đi làm việc ở nước ngoài”. Ðây là yêu cầu và giải pháp chung cho đối tượng NLÐ đi làm việc ở nước ngoài chứ không chỉ nhóm lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Do đó, các chuyên gia lao động cho rằng, cần rà soát, xem xét tất cả các dòng dịch chuyển lao động quốc tế hợp pháp mà lao động Việt Nam đang tham gia, nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của dự thảo Luật, bảo đảm nhu cầu việc làm thỏa đáng của nhóm lao động yếu thế, trong đó có LÐN.