Mô hình quản trị công để 'Việt Nam hóa rồng'
Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Đông Bắc Á. Các nước trong khu vực áp dụng mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển đều đã 'hóa rồng'. Nếu Việt Nam tiếp tục mô hình này, chúng ta có thể là quốc gia tiếp theo sẽ 'hóa rồng'. Cùng BTV Quang Minh trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội trong Podcast đầu xuân của Đài Hà Nội.
Quản trị công Việt Nam trong dòng chảy văn hóa Đông Bắc Á
Phóng viên: Thưa Tiến sĩ, ông có thể cho biết Việt Nam thuộc nền văn hóa Đông Á với những đặc trưng như thế nào?
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng: Việt Nam nằm trong văn hóa Đông Á và Đông Nam Á, thực chất Việt Nam là một nước rất đặc biệt, có giao thoa giữa hai nền văn hóa: văn hóa Đông Á ảnh hưởng của Trung Quốc rất lớn; ảnh hưởng của các nước ở Đông Nam Á (văn hóa của Đông Á hay là Đông Bắc Á) là ảnh hưởng của Nho giáo, ảnh hưởng của truyền thống khoa bảng, ảnh hưởng của Khổng Tử, ảnh hưởng của ăn cơm đũa. Những ảnh hưởng này thuộc về văn hóa Đông Á hay còn gọi là Đông Bắc Á. Văn hóa về quản trị công, Việt Nam tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của văn hóa Đông Bắc Á, ở đời sống cộng đồng, có nhiều ảnh hưởng của văn hóa Đông Nam Á.
Phóng viên: Thưa ông, một trong những đặc trưng của văn hóa Đông Á đó chính là truyền thống khoa bảng. Ông có thể làm rõ hơn về điều này cho quý thính giả được biết?
Tiến sỹ Nguyễn Sĩ Dũng: Truyền thống khoa bảng là đặc trưng cho những nước Đông Á, trong đó có Việt Nam. Việt Nam chúng ta là một trong những nước có truyền thống khoa bảng.
Truyền thống khoa bảng và nền tảng cho hệ thống công vụ Việt Nam
Phóng viên: Thưa ông, truyền thống khoa bảng có tác động như thế nào đến cách thức trị vì đất nước và đặc biệt là của cha ông ta?
Tiến sỹ Nguyễn Sĩ Dũng: Truyền thống khoa bảng thực chất bắt đầu từ Trung Quốc. Ở Việt Nam, có 1.000 năm Bắc thuộc rồi đến thời kỳ giao lưu văn hóa giữa hai nền văn hóa nên Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn từ truyền thống khoa bảng. Ở Việt Nam, truyền thống khoa bảng bắt đầu từ thời nhà Lý, sau đó tiếp tục đến thời nhà Trần, rồi các triều đại sau đều duy trì mô hình tương tự.
Truyền thống khoa bảng chính là truyền thống thi tuyển để chọn người tài cho công vụ. Bản chất của hệ thống này ảnh hưởng rất lớn đến cách thức quản trị quốc gia. Bởi thực tế, chọn đúng người tài thì làm việc gì cũng hiệu quả hơn. Bác Hồ từng nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém". Vì vậy, việc tuyển chọn người tài là điều cực kỳ quan trọng để xây dựng một bộ máy công quyền chuyên nghiệp và hiệu quả.
Ở thời phong kiến, hệ thống cai trị của Việt Nam là phong kiến tập quyền, nhưng nó có một số ưu điểm vượt trội hơn so với các nước khác. Thứ nhất, giúp chọn được người tài vào công vụ. Trong khi đó, ở nhiều nước phương Tây hay các quốc gia khác không chịu ảnh hưởng của truyền thống khoa bảng, hệ thống cai trị thường dựa vào dòng tộc: bà con, anh em, con vua, cháu chúa. Do đó, nếu xét về phương pháp tuyển chọn, thi khoa bảng là tốt hơn so với bổ nhiệm dựa trên huyết thống. Thứ hai, khoa bảng giúp tạo ra sự công bằng xã hội. Ai cũng có cơ hội vươn lên, người nghèo có tư chất vẫn có thể đạt được địa vị cao trong xã hội. Trong khi đó, nếu không có hệ thống khoa bảng, con ông cháu cha sẽ nắm quyền, chỉ có giai cấp dòng tộc mới được lên làm quan. Vì vậy, khoa bảng đảm bảo chọn đúng người tài và tạo ra sự bình đẳng hơn. Đây là một trong những nguyên nhân giúp nền công vụ của Trung Quốc và Việt Nam có thời kỳ phát triển rực rỡ.
Thực tế, Trung Quốc từng có một thời kỳ rất huy hoàng, là trung tâm của nền văn minh nhân loại, một phần nhờ vào hệ thống công vụ tuyển chọn đúng người tài. Vì vậy, thi tuyển công vụ không chỉ giúp lựa chọn nhân tài, mà còn chọn người có đức, tức là những người vừa tài giỏi, vừa có đạo đức.
Nền công vụ thời đó tốt vì hệ thống khoa bảng gắn liền với tư tưởng Nho giáo. Nho giáo đặt nền tảng trên đức trị, tức là quản lý nhà nước bằng đạo đức. Một nhà lãnh đạo không chỉ cần tài năng, mà còn phải có đạo đức, biết nêu gương cho dân chúng.
Ở thời phong kiến, quan lại không cai trị dân chủ bằng pháp luật khắc nghiệt, mà lấy đạo đức và tấm gương của mình để dẫn dắt dân chúng. Những người đạt học vị cao như trạng nguyên, tiến sĩ thường là những người giỏi giang nhưng cũng rất có đạo đức. Đây là một yếu tố quan trọng, góp phần giúp nền công vụ Đông Bắc Á phát triển mạnh mẽ và có tính chuyên nghiệp cao hơn.
Những quốc gia Đông Bắc Á hiện nay vẫn còn giữ được những giá trị này, vì vậy nền công vụ của họ không chỉ chuyên nghiệp mà còn có nền tảng đạo đức rất vững chắc. Văn hóa đóng vai trò then chốt trong sự phát triển của một đất nước.
Phóng viên: Thưa Tiến sĩ, ông vừa chia sẻ truyền thống khoa bảng vẫn tiếp nối cho đến ngày nay ở một chừng mực nào đó. Theo đánh giá của ông, mức độ kế thừa, mức độ tiếp nối này được thể hiện qua những điều gì?
Tiến sỹ Nguyễn Sĩ Dũng: Thực chất truyền thống khoa bảng của mình đã bị đứt gãy. Từ khi Pháp vào, Việt Nam bị ảnh hưởng bởi hệ thống giáo dục của phương Tây. Cách thi cử thay đổi, xuất hiện các trường theo mô hình phương Tây. Tuy nhiên, dù bị ảnh hưởng, nhưng không có nghĩa là truyền thống khoa bảng biến mất hoàn toàn. Nó vẫn tồn tại ở một số khía cạnh mà ta có thể cảm nhận được.
Thứ nhất, truyền thống hiếu học của người Việt vẫn còn rất mạnh mẽ. Hiện nay, dù là một nước nhỏ nhưng người Việt học tập rất nhiều ở các quốc gia tiên tiến. Học tập ở châu Âu, Mỹ vẫn là một xu hướng lớn và truyền thống hiếu học - vốn có từ thời khoa bảng vẫn còn được duy trì. Đây chính là một di sản quý giá của đất nước.
Thứ hai, truyền thống học để làm quan vẫn còn tồn tại. Hiện nay, dù có trở thành tỷ phú, nhiều người vẫn cảm thấy tự hào hơn nếu được làm quan, được "vinh quy bái tổ" về làng. Trong gia phả, dòng họ, danh tiếng của một người đỗ đạt vẫn được ghi nhận. Đây vẫn là một động lực quan trọng giúp khuyến khích tinh thần học tập. Nếu hệ thống thi tuyển được tổ chức chặt chẽ, đúng chuẩn, thì vẫn có thể chọn được người tài phục vụ đất nước.
Ở Mỹ, việc tuyển chọn nhân tài không dễ dàng, trong khi Việt Nam nếu biết tổ chức tốt hệ thống thi tuyển công chức, chúng ta vẫn có thể phát triển một nền công vụ chuyên nghiệp. Hiện nay, chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm từ Nhật Bản, nơi họ tổ chức kỳ thi công chức quốc gia để chọn người giỏi nhất vào hệ thống nhà nước. Nếu Việt Nam áp dụng mô hình này, chúng ta có thể tận dụng nguồn nhân lực từ hơn 100 triệu dân, giúp chọn ra người xứng đáng nhất để quản trị quốc gia.
Về góc độ văn hóa, truyền thống khoa bảng vẫn còn lưu giữ, nhưng cũng có một số điểm đứt gãy. Hiện nay, vấn đề đặt ra là thi cử như thế nào để chọn đúng người tài, người có đức. Cách tổ chức thi tuyển của một số cơ quan hiện nay có thực sự tuyển chọn được nhân tài hay không? Tôi từng xem một số đề thi và cảm thấy rất thất vọng. Nhiều bài thi chỉ kiểm tra kiến thức học thuộc lòng, điều này trở nên vô nghĩa trong thời đại trí tuệ nhân tạo. Chỉ cần tra ChatGPT, một câu hỏi có thể được trả lời trong vòng 30 giây. Vì vậy, cách thi cử cần thay đổi.
Trước đây, khoa bảng gắn liền với Nho giáo, đề cao đạo đức và sự trung thực. Nhưng nếu ngày nay vẫn giữ nguyên phương pháp thi cử nặng về Nho giáo, có lẽ sẽ không còn phù hợp. Tuy nhiên, năng lực tư duy, giải quyết vấn đề vẫn là tiêu chí quan trọng. Nếu không thay đổi cách thi cử, chúng ta có thể chọn nhầm những người học vẹt, thay vì những người có năng lực thực sự.
Ví dụ, một đề thi có thể đặt vấn đề: "Giao thông Hà Nội ách tắc như hiện nay, nếu anh/chị được giao phụ trách lĩnh vực này, anh/chị sẽ đưa ra giải pháp nào?". Những câu hỏi như vậy sẽ giúp chọn ra người có tư duy thực tế, có khả năng giải quyết vấn đề, thay vì chỉ kiểm tra kiến thức sách vở.
Một điểm đứt gãy khác là hệ thống bổ nhiệm nhân sự. Ngày xưa, ai thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa thì được bổ nhiệm. Nhưng hiện nay, việc bổ nhiệm quan chức phải qua nhiều vòng lấy phiếu tín nhiệm, công tác nhân sự phức tạp hơn rất nhiều. Điều này dẫn đến việc người giỏi chuyên môn chưa chắc đã được chọn, thay vào đó, họ phải có kỹ năng chính trị, tức là phải biết tạo dựng mối quan hệ. Kỹ năng này cần thiết cho cấp cao nhất, nhưng ở cấp thực thi chính sách, thì chuyên môn phải là yếu tố quan trọng nhất.
Chúng ta có thể học hỏi mô hình của Singapore. Dù là một quốc gia Đông Nam Á, nhưng hệ thống công vụ của Singapore lại mang phong cách Đông Bắc Á, với tỷ lệ người Hoa chiếm đến 75% dân số. Singapore đo lường năng lực của công chức bằng KPI, bằng các chỉ số sáng tạo, tính linh hoạt, khả năng giải quyết vấn đề. Mỗi cán bộ đều có hệ thống đánh giá công khai, nếu đạt chuẩn mực cao, họ sẽ được đề bạt lên cấp cao hơn một cách minh bạch.
Nếu Việt Nam có thể thoát khỏi những điểm đứt gãy, đồng thời kết hợp với thời đại mới, thì chắc chắn chúng ta sẽ có một nền công vụ mạnh hơn, hiệu quả hơn.
Phóng viên: Thưa Tiến sĩ, ông vừa nhắc đến mô hình quản trị trên thế giới mà chúng ta có thể học hỏi. Vậy theo ông mô hình quản trị đương đại của những quốc gia hiện nay có những đặc điểm gì và Việt Nam có thể rút ra những bài học kinh nghiệm gì từ đó.
Tiến sỹ Nguyễn Sĩ Dũng: Về quản trị nói chung người ta thường nói là nhà nước pháp quyền, nhà nước tập trung, nhà nước tản quyền, nhà nước độc tài, nhà nước toàn trị.
Mô hình nhà nước kiến tạo phát triển là mô hình vận hành kinh tế của các nước Đông Bắc Á; mô hình nhà nước điều chỉnh là mô hình nhà nước vận hành kinh tế của các nước Âu, Mỹ; mô hình nhà nước kế hoạch hóa là mô hình nhà nước điều chỉnh kinh tế thông qua kế hoạch hóa của mô hình Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa;...
Trong các mô hình đó chúng ta sẽ thấy có những mô hình tốt cho một số nước mà lại không tốt cho nước khác. Vậy mô hình nào tốt cho Việt Nam? Mô hình nhà nước kế hoạch hóa, chúng ta thử rồi và không thành công. Những mô hình nhà nước điều chỉnh kiểu của Anh, Mỹ hay mô hình nhà nước kiến tạo phát triển theo của các nước Đông Bắc Á, nhìn từ gốc văn hóa, rõ ràng không phải là mô hình Anh, Mỹ. Chúng ta có văn hóa Đông Bắc Á, như vậy, Đông Bắc Á có nền tảng văn hóa Đông Á và Đông Bắc Á có 7 nước và vùng lãnh thổ nhưng đã có 5 nước 'hóa rồng', còn Việt Nam và Bắc Triều Tiên. Bắc Triều Tiên đang theo mô hình nhà nước kế hoạch hóa, Việt Nam đã vượt khỏi mô hình đó và vấn đề chính là nếu lựa chọn mô hình nhà nước tác động đến kinh tế qua mô hình nhà nước kiến tạo phát triển thì Việt Nam sẽ là nước tiếp theo 'hóa rồng'.
Với văn hóa Đông Bắc Á, rõ ràng Việt Nam có nền tảng văn hóa và có rất nhiều điều cần phải làm. Ở mô hình nhà nước, một trong những điều kiện kiên quyết của mỗi Nhà nước kiến tạo phát triển là đội ngũ hành chính công vụ tinh hoa.
Định hình nền công vụ hiện đại để đưa Việt Nam 'hóa rồng'
Phóng viên: Thưa Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, ông đã nói qua về cách thức một số quốc gia đang tuyển chọn nhân tài và những mô hình giúp thu hút người tài vào hệ thống công vụ, và đây cũng là một vấn đề đang đặt ra đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, ông có kỳ vọng như thế nào về cuộc cách mạng tinh giản mà Tổng Bí thư Tô Lâm đang quyết liệt triển khai?
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi nghĩ đó là một cuộc cách mạng, điều này rất cần thiết và là cơ hội để chúng ta có thể 'thay máu' nhân sự một cách không phụ thuộc. Khi tinh gọn bộ máy mới có điều kiện để tuyển chọn lại, nếu giữ nguyên bộ máy cồng kềnh sẽ rất khó để thay đổi.
Thực tế, bất cứ nước nào muốn phát triển thì cũng phải có một nền công vụ chuyên nghiệp. Do đó, các nước đều hướng tới một cách để trọng dụng người tài vào bộ máy công quyền.
Đối với các nước Đông Bắc Á, họ vẫn theo truyền thống khoa bảng, tức là tuyển chọn thông qua thi cử. Các nước Âu, Mỹ họ thường chọn người từ những trường đại học danh tiếng để đảm bảo nền công vụ chuyên nghiệp. Ví dụ, các bộ, ngành lớn của Mỹ khi chọn công chức thường tìm đến Harvard, ở Anh là Oxford, Cambridge. Đó là một cách tiếp cận trong việc tuyển dụng nhân tài. Đối với Việt Nam, chúng ta nên giữ truyền thống khoa bảng, tức là tổ chức thi tuyển nghiêm túc ở cấp quốc gia để chọn ra người giỏi nhất. Trong công việc, mọi thứ cần được đo lường và đánh giá rõ ràng, có chỉ số đánh giá năng lực, có hệ thống đo lường như KPI. Nếu một người làm tốt thì có thể đưa lên ngay, không cần chờ đợi lâu. Do đó, chúng ta nên quay lại hệ thống thi tuyển nghiêm túc và đưa vào khung khái niệm quản trị nhân lực công, thay vì chỉ nói chung chung về công tác cán bộ - một khái niệm chưa thực sự rõ ràng.
Phóng viên: Thưa ông, tinh giản biên chế hay tuyển chọn người tài cần hướng đến mô hình quản trị như thế nào để có thể tích hợp được trí tuệ của những người tinh hoa nhất và để đất nước của chúng ta sẵn sàng bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc?
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng: Hiện tại, Việt Nam có thể trao đổi, hợp tác với Nhật Bản xem cách tổ chức một kỳ thi tuyển quốc gia để cấp chứng chỉ. Nếu có chứng chỉ các cơ quan nhà nước mới được phép tuyển dụng. Khi đó, giống như thi Hương, thi Hội, thi Đình ngày xưa, phải có chứng chỉ đó mới được xét vào hệ thống công vụ.
Phóng viên: Thưa ông, để kết thúc cuộc trò chuyện ngày hôm nay, ông có thể gửi một lời chúc năm mới đến quý vị thính giả của Đài Hà Nội, đặc biệt là gửi một lời chúc đến những ai đang lắng nghe chương trình của Đài Hà Nội.
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng: Năm mới 2025 là một năm rất đặc biệt, chúng ta đang chuẩn bị để bước vào một kỷ nguyên mới. Chúng ta đã có cuộc sống khá giả hơn, nhưng rõ ràng khi vươn mình, chúng ta sẽ có một cuộc sống không chỉ giàu có mà còn xứng đáng để người Việt được trân trọng trên thế giới. Chúc cho tất cả mọi người năm mới sức khỏe, an vui, đạt nhiều thành tích và đóng góp phần mình vào thời đại dân tộc Việt Nam đang vươn lên.
Phóng viên: Xin cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng.
Nguồn Hà Nội TV: https://hanoionline.vn/video/mo-hinh-quan-tri-cong-de-viet-nam-hoa-rong-299345.htm