Ngân hàng 'sống khỏe' nhờ thu nhập ngoài lãi, bất chấp NIM suy giảm

NIM toàn ngành ngân hàng giảm còn 3,18% trong quý II/2025 - chạm mức thấp nhất kể từ năm 2018 - song lợi nhuận ngành tiếp tục được hỗ trợ bởi thu nhập ngoài lãi.

Trong quý II/2025, lợi nhuận ngành ngân hàng tiếp tục được hỗ trợ tích cực bởi thu nhập ngoài lãi (tăng 26% so với cùng kỳ), trong khi thu nhập từ lãi thuần chỉ tăng 8,5%. Động lực tăng trưởng chính đến từ các khoản thu từ nợ xấu đã xử lý tăng gấp đôi, tăng 108% so với cùng kỳ, nhờ thị trường bất động sản phục hồi, giúp thúc đẩy quá trình thu hồi nợ. Nổi bật là VietinBank (7,8 nghìn tỷ đồng), BIDV (6,3 nghìn tỷ đồng), VPBank (5,2 nghìn tỷ đồng).

Song song đó, các ngân hàng cũng ghi nhận thu nhập từ giao dịch mua bán chứng khoán tăng mạnh (tăng 77% so với cùng kỳ), đóng góp đáng kể cho lợi nhuận toàn ngành trong quý II/2025.

Ngược lại, các mảng dịch vụ cốt lõi có mức tăng khá khiêm tốn: thu từ phí tăng 2,9% so với cùng kỳ, chủ yếu nhờ sự hồi phục nhẹ của bancansurrance. Bên cạnh đó, dù được hỗ trợ bởi tỷ giá USD/VND tăng hơn 3% so với đầu năm, lãi từ kinh doanh ngoại hối chỉ tăng nhẹ 4,8% so với cùng kỳ, do bị hạn chế bởi mức nền cao năm trước.

Diễn biến NIM toàn ngành ngân hàng. Nguồn: S&I Ratings

Diễn biến NIM toàn ngành ngân hàng. Nguồn: S&I Ratings

"Mặc dù áp lực NIM suy giảm vẫn tiếp diễn, chúng tôi cho rằng NIM có khả năng tạo đáy vào cuối năm 2025 – thời điểm tín dụng thường tăng tốc mạnh nhất, từ đó sẽ hỗ trợ lợi suất cho vay", chuyên gia của S&I Ratings nhận định tại Báo cáo cập nhật ngành ngân hàng 6 tháng đầu năm 2025, dựa trên số liệu của 27 ngân hàng trong phạm vi theo dõi của tổ chức này.

Tín dụng tăng trưởng 9,9%

Trong nửa đầu năm 2025, tín dụng toàn hệ thống ngân hàng đạt mức tăng trưởng 9,9% so với đầu năm, theo phân tích của S&I Ratings, đây là con số cao nhất kể từ năm 2012. Động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ khối ngân hàng thương mại cổ phần, đặc biệt là các ngân hàng tập trung cho vay doanh nghiệp. Chẳng hạn, VPBank tăng trưởng tín dụng 18,7%, HDBank tăng 15,3%, Nam A Bank tăng 14,7%, ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam tăng 13,5%, ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội tăng 12,9% và ngân hàng TMCP Quân Đội tăng 12,3%.

Ngược lại, khối quốc doanh và một số ngân hàng bán lẻ chỉ duy trì tốc độ khiêm tốn trong khoảng 6% - 9%. Chẳng hạn, BIDV tăng trưởng tín dụng khoảng 6,1%, Vietcombank tăng 7,3%, ngân hàng TMCP Á Châu tăng 9,2%, ngân hàng TMCP Phương Đông tăng 8,8% và ngân hàng TMCP Bản Việt tăng 6,5%.

Sự phân hóa này phản ánh rõ nét sự khác biệt trong chiến lược hoạt động cũng như khẩu vị rủi ro của từng nhóm ngân hàng.

Xét theo lĩnh vực, dư nợ cho vay sản xuất, xây dựng và thương mại - dịch vụ đều tăng trưởng tốt, đồng thời dư nợ cho vay bất động sản và dịch vụ tài chính cũng tăng mạnh tại một số ngân hàng. Chẳng hạn, so với cuối năm 2024, dư nợ cho vay chủ đầu tư bất động sản tại ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội tăng 41 nghìn tỷ đồng, theo sau Techcombank tăng 40 nghìn tỷ đồng và ngân hàng TMCP Quân Đội tăng 21 nghìn tỷ đồng.

Xu hướng chất lượng tài sản toàn ngành. Nguồn: S&I Ratings

Xu hướng chất lượng tài sản toàn ngành. Nguồn: S&I Ratings

Cho vay các công ty chứng khoán cũng tăng mạnh, như: tại Nam A Bank tăng 15 nghìn tỷ đồng, VPBank tăng 13 nghìn tỷ đồng, Vietbank tăng 12 nghìn tỷ đồng và ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam tăng 11 nghìn tỷ đồng.

"Các ngân hàng đẩy mạnh cho vay bất động sản và chứng khoán cũng là những ngân hàng ghi nhận tăng trưởng tín dụng ấn tượng trong nửa đầu năm 2025. Điều này phản ánh xu hướng dịch chuyển sang các lĩnh vực tiềm năng sinh lời cao nhưng đi kèm rủi ro lớn hơn", chuyên gia của S&I Ratings nhận định.

Tỷ lệ hình thành nợ xấu (theo quý), theo nhóm ngân hàng. Nguồn: S&I Ratings

Tỷ lệ hình thành nợ xấu (theo quý), theo nhóm ngân hàng. Nguồn: S&I Ratings

Ngày 31/7/2025, NHNN đã điều chỉnh tăng hạn mức tín dụng cho các ngân hàng đã hoàn thành 80% hạn mức được cấp đầu năm, S&I Ratings đánh giá mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% của Chính phủ là khả thi và có thể đạt mức 17% – 18% cả năm nếu nhu cầu vốn duy trì tích cực cùng với đà phục hồi của nền kinh tế.

Đặc biệt, một số ngân hàng TMCP lớn ngân hàng TMCP Quân Đội, VPBank và HDBank nhiều khả năng sẽ có tốc độ tăng trưởng vượt trội (25% – 30%) so với toàn ngành trong năm 2025.

Tỷ lệ vốn chủ sở hữu hữu hình trên tổng tài sản từng ngân hàng cuối quý II/2025. Nguồn: S&I Ratings

Tỷ lệ vốn chủ sở hữu hữu hình trên tổng tài sản từng ngân hàng cuối quý II/2025. Nguồn: S&I Ratings

Dù vậy, S&I Ratings cũng dự báo, các ngân hàng có thể phải đối mặt với áp lực gia tăng huy động vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng tăng cao. Mức độ tác động sẽ phân hóa, khi một số ngân hàng TMCP có thể giảm bớt áp lực nhờ mở rộng cho vay trung và dài hạn hoặc tối ưu tỷ lệ LDR.

Mặt khác, thu ngoài lãi được kỳ vọng duy trì đà tăng trưởng và thu từ nợ xấu đã xử lý sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng cho lợi nhuận toàn ngành trong nửa cuối năm 2025.

Nợ nhóm 2 các ngân hàng giảm về mức thấp nhất 3 năm

Cùng với tăng trưởng tín dụng, chất lượng tài sản ngành ngân hàng cũng có sự cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ nợ nhóm 2 giảm xuống còn 1,24% - mức thấp nhất trong 3 năm - trong khi nợ xấu giảm về 2,03%, giảm 12 điểm so với quý trước và 20 điểm so với cùng kỳ năm ngoái.

Nguyên nhân chủ yếu đến từ "hiệu ứng kĩ thuật' khi dư nợ tăng nhanh, kéo tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ xuống, đồng thời công tác xử lý nợ xấu được đẩy mạnh với tổng giá trị xử lý trong quý II đạt 37.100 tỷ đồng, tăng 36% so với quý trước.

Sự cải thiện này tập trung ở nhóm ngân hàng lớn và vừa (như VPBank, TPBank, ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội, ngân hàng TMCP Quân Đội, ngân hàng TMCP Á Châu, ngân hàng TMCP Phương Đông và ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam), còn một số ngân hàng nhỏ (như ngân hàng TMCP Bản Việt, ngân hàng TMCP Thịnh vượng và phát triển, ngân hàng TMCP Việt Á) lại chứng kiến nợ xấu gia tăng, đặt ra những thách thức không nhỏ.

Bộ đệm dự phòng toàn ngành. Nguồn: S&I Ratings

Bộ đệm dự phòng toàn ngành. Nguồn: S&I Ratings

Một thách thức lớn nằm ở bộ đệm dự phòng khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành chỉ quanh 80%, thấp hơn đáng kể so với giai đoạn 2021 - 2022. Sự phân hóa diễn ra rõ nét: các ngân hàng nhỏ có bộ đệm yếu, trong khi nhóm lớn lại tăng mạnh trích lập dự phòng nhờ lợi nhuận hoạt động khả quan.

Một số ngân hàng như VPBank, ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội, ngân hàng TMCP Quân Đội đã đẩy mạnh trích lập dự phòng trong bối cảnh chất lượng tài sản cải thiện và thu nhập hoạt động tăng trưởng tốt. Chẳng hạn, trích lập dự phòng tại ngân hàng TMCP Quân Đội tăng 22%, trích lập tại ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội tăng 135% so với cùng kỳ.

Ngược lại, trích lập dự phòng tại ngân hàng TMCP Thịnh vượng và phát triển, ngân hàng TMCP Việt Á lại giảm trích lập mặc dù nợ xấu tăng.

So sánh chất lượng tài sản cuối quý II/2025. Nguồn: S&I Ratings

So sánh chất lượng tài sản cuối quý II/2025. Nguồn: S&I Ratings

Đặc biệt, áp lực trích lập dự phòng vẫn tiếp diễn khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành đang ở mức thấp nhất kể từ năm 2019. Bởi lẽ, theo Nghị định 86/2024/NĐ-CP, tài sản bảo đảm là bất động sản nếu quá 2 năm kể từ khi các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền xử lý, sẽ không còn được khấu trừ khi tính dự phòng.

"Quy định này có thể làm gia tăng chi phí dự phòng, đặc biệt tại những ngân hàng có tỷ lệ nợ nhóm 5 duy trì ở mức cao và kéo dài", S&I Ratings nhận định.

Từ đó, trong ngắn hạn, S&I Ratings đánh giá nợ xấu toàn ngành nhiều khả năng duy trì đà giảm nhẹ.

"Tín dụng tăng mạnh tiếp tục góp phần hỗ trợ tỷ lệ nợ xấu giảm, nhờ dư nợ mẫu số tăng. Tuy vậy, trong trung và dài hạn, tăng trưởng tín dụng cao có thể tạo áp lực lên chất lượng tài sản do nợ xấu thường có độ trễ hình thành", chuyên gia của S&I Ratings nhấn mạnh.

An Nhiên

Nguồn Nhà Quản Trị: https://theleader.vn/ngan-hang-song-khoe-nho-thu-nhap-ngoai-lai-bat-chap-nim-suy-giam-d42057.html