Ngồi buồn dỡ mắm nhau ra

Ngồi buồn dỡ mắm nhau raMắm ông thì thúi, mắm bà không thơmTừ 'mắm' xuất hiện trong câu dao miền Nam, trước hết cho chúng ta biết ăn mắm đã là một sự khoái khẩu, ưng cái miệng. Ai cũng thích ăn mắm, dù người đó giàu nứt đố đổ vách hay nghèo mạt rẹp thì cũng khoái mắm, nhớ mắm, thèm mắm.

Không phải ngẫu nhiên năm 1861, cụ Nguyễn Đình Chiểu về cư ngụ Ba Tri (Bến Tre), cụ Phan Văn Trị thỉnh thoảng ghé thăm tri kỷ. Lần nọ cả hai nhắc về Tôn Thọ Tường, nhìn mâm cơm có chén mắm thiệt ngon, cụ Đồ Chiểu gật gù: “Tường theo Tây, đã quen món cơm Tây, chắc nó không ăn mắm được như bọn mình rồi”. Cụ Trị tán thành: “Phải rồi. Hễ còn biết ăn mắm sống, thì không phải là Tây”. Mắm sống là “Loại mắm con nhỏ như mắm cá linh, cá sặc kẹp với rau thơm mà ăn, không cần chế biến”- theo “Phương ngữ Nam Bộ” (2015) của Bùi Thanh Kiên. Nhìn rộng ra, giai thoại trên nhằm ngụ ý về mắm/ biết ăn mắm còn gắn liền với bản sắc dân tộc, biểu hiện tinh thần yêu nước.

Bữa cơm gia đình của người Việt xưa (ảnh tư liệu)

Bữa cơm gia đình của người Việt xưa (ảnh tư liệu)

Ở miền Nam thời trước có câu cửa miệng “Tây ăn mắm sống” - là chê bai những ai dù rặt ròng con Rồng cháu Tiên nhưng lại ham hố học đòi, đua đòi theo Tây những tưởng mình là dân mắt xanh mũi lõ, đích thị là “Tây giả cầy”! Trong bài báo “Lấy máu trong tim ra để vẽ tranh” (báo Trung Bắc chủ nhật, Hà Nội, số 248 ra ngày 10/6/1945), nhà văn Vũ Bằng nhận xét: “Tây gầy như con mắm, quần lòe xòe kiểu Sác-lô vác một cái va-li lép kẹp trèo lên đất Đông Dương”. Ta hình dung ra người nữ đó gầy đét, không “bắt mắt” lắm, dù cũng gầy nhưng khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết: “Tìm em tôi tìm mình hạc xương mai. Tìm trên non ngàn một cành hoa khôi” lại là miêu tả vóc dáng thanh mảnh, khác với gầy còm, gầy mòn, gầy gò, gầy yếu…

Ngồi buồn dỡ mắm nhau ra.

Buồn, bất kỳ ai cũng từng trải qua tâm trạng có thể là buồn bã, buồn bực, buồn buồn… trái ngược với vui. “Sao đang vui vẻ ra buồn bã/ Vừa mới quen nhau đã lạnh lùng” (Tú Xương). Thế nhưng “ngồi buồn” là ngồi ra làm sao? Theo “Tự điển từ và ngữ Việt Nam” của Nguyễn Lân: “Ngồi một chỗ, không làm việc gì: Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”. Cách giải thích này cần xem lại, vì ta từng nghe, từng nói đến “Ăn không ngồi rồi”, “Ăn dưng ngồi dưng” - “dưng” có nghĩa là không làm việc gì, rồi là rỗi/ rảnh rỗi là chỉ ăn chứ không làm gì cả, chứ “ngồi buồn” không thể hiểu như giải thích trên.

Như vậy, tương tự “ngồi rồi”, “ngồi dưng” ta có thể hiểu đó là tư thế ngồi của một người đang buồn? Không hẳn như thế, bởi khi khảo sát trong ca dao, ta sẽ thấy “ngồi buồn” đã trở thành đã là một cụm từ cố định, thí dụ:

Ngồi buồn đem thước đi đo

So từ núi Sở núi So núi Thầy

Ngồi buồn quấy nước trông trăng

Nước trong trăng lặn buồn chăng hỡi buồn

Ngồi buồn giả chước đi câu

Cá ăn không giựt mảng sầu nhân duyên

Động tác ngồi cho thấy một tư thế diễn ra trong khoảng thời gian dài nhất định, có như thế con người ta mới có thể hồi tưởng hoặc làm một việc gì đó có lớp lang, thấu đáo; còn nếu “đi/ đứng/ nằm buồn” thì không thể. Về từ “ngồi buồn”, “Việt Nam tự điển” (1970) giải thích đúng hơn cả: “Tiếng dùng trong văn chương khi mở đầu thuật một việc tình cảm: Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/ Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”.

Vậy, với câu “Ngồi buồn dỡ mắm nhau ra”, ta nghĩ gì?

Nghĩ rằng, “dỡ mắm” và “gắp mắm” có liên quan gì không? Tại sao phải là dỡ mắm, chứ không là gì khác? Có phải là việc làm cần thiết trước lúc ăn cơm, nếu không thì dỡ mắm để làm gì cơ chứ? Tục ngữ có câu: “Liệu cơm mà gắp mắm, liệu con gả chồng”. Nếu suy luận “dỡ mắm” và “gắp mắm” cùng là động tác nhằm phục vụ cho bữa ăn, liệu chừng có đúng?

Trước hết, ta hãy khảo sát vài từ liên quan.

“Gắp: Dùng đũa hay hai thanh tre, nứa cặp lấy vật gì mà nhắc lên: Gắp đồ ăn, gắp than. Nghĩa bóng: Gieo, bỏ vào: Gắp lửa bỏ bàn tay” (Việt Nam tự điển, 1931). Tục ngữ có câu: “Tham bù chẻ gắp” là ý nói muốn thêm nữa, tìm nhiều cách để có lợi cho mình từ nhiều phía, chẳng khác gì tâm thế ai kia “Được con em, thèm con chị” đúng là tham lam, ham hố quá xá. Tuy nhiên lại khác với “Được con giếc, tiếc con rô” dù ham hố nhưng ở đây đã có sự do dự, cân nhắc thể hiện qua từ “tiếc” là còn đang phân vân lựa chọn, chỉ được một chứ không thể “Tham bù chẻ gắp”.

Đừng quên, dù chỉ gắp/ gắp mắm nhưng ông bà ta dặn dò “Liệu cơm gắp mắm”.

“Liệu: Toan tính lo lắng, nghĩ phải làm thế nào” – “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895), “Liệu: Toan tính” - “Việt Nam tự điển” (1931). Có hàng loạt câu tục ngữ liên quan đến từ “liệu” như “Liệu gió phất cờ”, “Liệu tài bổ chức, liệu sức bổ gánh”, “Liệu oản đọc kinh”, “Liệu bò đo chuồng”, “Liệu chiều che gió”, hoặc:

Liệu cơm mà gắp mắm ra

Liệu cửa liệu nhà mà lấy chồng đi

Nữa mai quá lứa lỡ thì

Cao thì chẳng tới, thấp thì chẳng thông

(Ca dao)

Căn cứ “Từ điển Truyện Kiều” của học giả Đào Duy Anh, ta biết từ “liệu” xuất hiện cả thảy 18 lần; ngoài ra còn có từ liệu bài, liệu chừng, liệu những từ nhà, liệu với thân. Rõ ràng từ “liệu” quen thuộc với cách nói xưa nay của người Việt, kể cả khi nói liệu hồn/ liệu thần hồn lại hàm nghĩa khác.

Có thể nói, “liệu” là tính toán, tính trước một việc gì đó hết sức cần thiết, có tính quan trọng, lớn lao; trong khi đó mắm có là gì đâu mà phải liệu, phải cân nhắc tính toán trước khi gắp? Đã thế, mỗi lần gắp thì một gắp, vài gắp cũng không nhiều nhặn, chỉ nằm vỏn vẹn trong hai đầu chiếc đũa kẹp lại. Mà, mắm không phải đặc sản, cao lương mỹ vị gì. Hơn nữa mỗi lần làm mắm, người thường dự trữ trong lu, khạp, thừa sức ăn cả năm, vậy, khi gắp với số lượng ít ỏi cần gì phải liệu?

Ấy thế, từ “liệu” đã xuất hiện là có chủ đích, chứ tục ngữ, thành ngữ không bao giờ nói khơi khơi, nói vu vơ, nói lấy được mà luôn cân nhắc, đã được sàng lọc qua bao đời. “Liệu cơm gắp mắm” - không chỉ liệu do sự việc đó có tính quan trọng, lớn lao mà cả việc bình thường như “cơm ngày ba bữa, đỏ lửa ba lần”, trước lúc ăn thì ngay cả mắm - dẫu nhà còn dự trữ nhiều nhưng cũng phải liệu. Liệu chừng ấy người ăn, gắp ra bao nhiêu là vừa, không thừa không thiếu.

Lời dặn dò này nhắc nhở về tính tiết kiệm, tằn tiện, không lãng phí, phải chu toàn liệu trước tính sau ngay cả việc nhỏ nhất, chứ không phải chỉ việc lớn. Cái hay, cái độc đáo của câu tục ngữ này, còn là chọn từ “mắm/ gắp mắm” xuất hiện cùng với từ “liệu /liệu cơm” rất quen thuộc, do đó, không chỉ dễ hiểu mà còn dễ nhớ, dễ truyền miệng. Từ đó, hiểu qua nghĩa bóng là trước khi bắt tay làm, thực hiện một việc gì đó, dù lớn dù nhỏ thì mình cũng phải liệu trước, tính toán trước. Liệu xem tài lực đến đâu, khả năng thực có ra sao, hoàn cảnh cụ thể của mình thế nào thì làm trong khả năng đó, phạm vi đó, hòng về sau tránh xẩy ra trường hợp ngoài ý muốn.

Ngồi buồn dỡ mắm nhau ra

“Dỡ: Lấy rời ra lần lượt từng cái, từng phần, từng lớp, theo thứ tự, thường là từ trên xuống. Dỡ hàng trên xe xuống. Dỡ nhà. Dỡ khoai” (Từ điển tiếng Việt, 1988). Nếu, “Dở: Lật mặt nọ sang mặt kia: Giở sách, giở từng trang tạp chí” (Đại từ điển tiếng Việt, 1999) thì “Dở” cũng còn có cách viết “giở”, mà “giở” cũng là “trở”, thí dụ cô vợ bảo chồng: “Từ rày giở/ trở đi anh phải về nhà đúng giờ”.

Khi nói “dỡ mắm”, do có từ mắm nên ta xác định được vị trí của nó là đang nằm trong hũ, hoặc chĩnh, tục ngữ có câu: “Mắm thúi không ai nhìn chĩnh”…, trong Nam còn có từ dùng để chỉ vật dụng na ná này là mái. Mà, con mắm nằm xếp lớp trong đó, tất nhiên phải có nắp đậy, kinh nghiệm cho biết càng kín càng tốt, chứ “hở gió” dễ sinh ra giòi, gọi là “mắm trở”.

Do sự xuất hiện của con giòi, một khi nói “dỡ mắm” thì không phải chỉ hành động cụ thể “Liệu cơm gắp mắm”, cần hiểu qua nghĩa bóng ngụ ý khi xét lại chuyện cũ đã xảy ra trong quá khứ, ta thấy có chuyện/ người tốt (mắm) và xấu (giòi) lẫn lộn, qua đó mà phán xét, đánh giá.

Chính vì lẽ này, học giả Vương Hồng Sển đặt nhan đề tập sách “Dỡ mắm” (NXB Trẻ - 2015) cho biết nhắc lại chuyện xưa cũ chính là lúc dỡ mắm: “Nhưng khi dỡ nắp mái ra, chỉ thấy những giòi. Không lý bỏ hết nguyên mái hay sao? Tục ngữ đã sẵn câu Mắm ngon chi lắm cũng có giòi, biết kinh nghiệm chịu khó vớt giòi ra, là mắm ăn được rồi” (tr.8).

Vậy, trong mớ chuyện cũ đó, nếu với tâm thế “gạn đục khơi trong”, ta bình tâm xem xét vẫn còn tìm thấy cái có ích, chứ nào phải tất tần tật đổ đi hết ráo.

Lê Minh Quốc

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/ngoi-buon-do-mam-nhau-ra-i791209/