Người Khơ Mú ở Tuần Giáo gìn giữ 'báu vật' của dân tộc
Những bộ trang phục đa sắc màu thể hiện sự cần cù, sáng tạo và tỉ mỉ trong từng đường kim mũi chỉ của những người phụ nữ Khơ Mú, góp phần lưu truyền cho thế hệ sau biết trân trọng và gìn giữ nét văn hóa cội nguồn dân tộc mình.
Đồng bào người Khơ Mú còn có tên gọi là Kờ Mụ, Kmụ, Kưm Mụ, Xá Cẩu, Khạ Klẩu, Măng Cẩu, Tày Hạy. “Người Xá (Khơ Mú) ăn theo lửa, người Thái ăn theo nước, người Mông ăn theo mây mù...” là cách mà đồng bào Tây Bắc thường hay nói để chỉ về địa lí phân bố tự nhiên của các dân tộc.
Ở tỉnh Điện Biên, người Khơ Mú có khoảng hơn 22 ngàn người, chiếm 3,9% dân số toàn tỉnh, cư trú chủ yếu trên các triền núi cao hoặc vùng lưng chừng núi thuộc các huyện, thành phố: Ðiện Biên Ðông, Mường Ảng, Tuần Giáo, Tủa Chùa, Mường Chà, Nậm Pồ, TP. Ðiện Biên Phủ,... với nhiều nét sinh hoạt văn hóa truyền thống đa dạng, phong phú và giàu bản sắc.
Những tác phẩm nghệ thuật độc đáo
Sống chung với nhiều dân tộc khác, cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục truyền thống là một trong những nét văn hóa độc đáo của dân tộc Khơ Mú. Từ xa xưa người Khơ Mú đã biết trồng bông, dệt vải để tự làm ra vải mặc, người phụ nữ Khơ Mú đã trở thành người nghệ sĩ tạo nên tác phẩm nghệ thuật thể hiện nét đẹp văn hóa, tín ngưỡng, lối sống của dân tộc mình, hoa văn được thêu dệt trên trang phục với nhiều màu sắc được kết hợp tinh tế thể hiện mỗi quan hệ bền chặt của con người với thiên nhiên.
Là người dân tộc Khơ Mú, sinh ra, lớn lên trên ở bản Hua Ca, xã Quài Tở (huyện Tuần Giáo), nghệ nhân Quàng Thị Hinh, bản Hua Ca, xã Quài Tở (huyện Tuần Giáo), là người am hiểu và nặng lòng với văn hóa dân tộc Khơ Mú.
Bà cho biết, con gái Khơ Mú từ khi 10 tuổi đã được truyền dạy thêu thùa trang phục. Bắt đầu học thêu họa tiết trên chiếc khăn piêu, khi đường kim, mũi chỉ thành thạo sẽ tự làm trang phục cho mình. Mỗi bộ trang phục dân tộc Khơ Mú thường mất khoảng gần 1 tháng để hoàn thiện.
Theo nữ nghệ nhân, trang phục của người Khơ Mú có kết cấu rất giống với trang phục của người Thái. Phụ nữ Khơ Mú mang trên mình chiếc áo ngắn, bên trong có yếm, lưng thắt vải, váy dài, chân mang xà cạp, đầu đội khăn... Khăn đội đầu (hưm pông) thường ngày gần giống như chiếc khăn piêu của người Thái được may bằng vải mộc hoặc nhuộm chàm, không trang trí hoa văn; khăn dài khoảng 02m, rộng 38 - 40cm tùy theo khổ vải dệt.
Khăn quấn đi lễ hội là loại khăn có thêu hoa văn một mặt; phụ nữ Khơ Mú khéo léo quấn vòng quanh đầu để phô phần hoa văn ra ngoài. Một loại khăn khác là khăn nối (một nửa là vải thô nhuộm chàm, một nửa là dệt hoa văn) cũng thường được phụ nữ dùng trong dịp lễ hội. Áo (Tẹp) của người Khơ Mú mặc thường ngày chủ yếu là áo ngắn màu chàm, xanh thẫm hoặc xanh lá mạ. Nẹp cổ liền với nẹp ngực nhưng chỉ dài ngang ngực. Phía dưới hai nẹp ngực nối thêm những băng vải nhỏ có màu đỏ, xanh, vàng. Áo thường có hai lớp vải, lớp trong thường là vải chéo xanh hoặc phin, lớp ngoài là vải dệt thô nhuộm chàm.
Trong những dịp lễ hội, cưới phụ nữ Khơ Mú thường là áo dài trùm kín cạp váy khoảng 20cm. Riêng phần ngực áo, dọc hai bên có bộ giải hình mặt trời tròn và hình mặt trời khuyết, ở giữa giải có đính những đồng tiền bạc thể hiện ước mong phồn thịnh của người dân, cầu mong các vị thần mặt trời sẽ sưởi ấm và che chở họ trong cuộc sống. Đặc biệt, yếm là một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong trang phục của người Khơ Mú. Yếm được may bằng vải màu trắng hoặc màu hồng. Đầu yếm cắt lượn tròn và thêu hoa văn trang trí, có đính hai dây vải để buộc vào cổ. Thân yếm đính hai dải vải dài hơn để buộc ra sau lưng.
Đối với váy chủ yếu may bằng vải màu đen hoặc màu chàm, ở phần chân váy thêu hoa văn trang trí bằng chỉ nhiều màu. Hoa văn trang trí trên váy rất đa dạng gồm hình mặt trời, mặt trăng, hươu, nai, rồng, chim công, gà lôi, các loại hoa thược dược, hoa ban, phong lan...
Nói đến trang phục người Khơ Mú thì không thể không nhắc tới đồ trang sức như: vòng tay, hoa tai, vòng cổ... chủ yếu được làm bằng bạc (có thể đeo nhiều vòng). Những chiếc vòng được tạo hình tròn song không khép kín mà thường hở một đoạn nhất định. Không chỉ phụ nữ mà đàn ông Khơ Mú cũng sử dụng đồ trang sức.
Ngược lại, nếu trang phục của phụ nữ Khơ Mú cầu kì bao nhiêu thì trang phục của nam người Khơ Mú lại rất đơn giản gồm có áo, quần được may bằng vải bông nhuộm chàm. Vào những dịp lễ, tết, cưới hỏi, đàn ông người Khơ Mú thường mặc áo dài màu đen và đội mũ nồi đối với người già, áo ngắn có khuy bằng vải đen đối với người trẻ tuổi.
Nỗ lực gìn giữ bảo tồn
Tại huyện Tuần Giáo, hiện cộng đồng người Khơ Mú chủ yếu sinh sống ở các bản vùng cao như: Hua Ca (xã Quài Tở); Huổi Lốt 1, Huổi Lốt 2, Co Nghịu (xã Mường Mùn); Hua Mức 3, Hát Khoang (xã Pú Xi); Ta Lếch, Bó Lếch (xã Mùn Chung).
Ðể giữ gìn trang phục truyền thống, những người lớn tuổi như nghệ nhân Quàng Thị Hin đã dành nhiều thời gian, tâm sức để chỉ dẫn cho lớp trẻ cách lưu giữ những hoa văn độc đáo cũng như cách trang trí chiếc áo mang đậm bản sắc riêng của dân tộc mình. Theo chia sẻ của bà, trang phục là một phần quan trọng, vừa tạo bản sắc riêng vừa làm đẹp cho các cô gái Khơ Mú. Khi biểu diễn các điệu múa của dân tộc, áo cóm, váy thổ cẩm sặc sỡ không chỉ tôn lên nét đẹp của người phụ nữ mà còn khiến điệu múa càng trở nên quyến rũ.
Bởi vậy, nghệ nhân Quàng Thị Hinh và những chị em khác ngày càng nỗ lực bảo tồn nét đẹp truyền thống của trang phục dân tộc mình. Việc mặc trang phục truyền thống vào những dịp lễ, Tết và những sinh hoạt trọng đại của gia đình không chỉ góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mà còn nâng cao đời sống tinh thần, lòng tự tôn dân tộc và góp phần xây dựng nếp sống văn hóa ở mỗi địa phương.
Chị Lường Thị Tiên là một thành viên của đội múa bản Hua Ca. Chị luôn hang hái đi đầu trong các hoạt động của bản. Để tham gia đội văn nghệ, chị cũng bỏ công thêu, đính để làm đẹp bộ trang phục dân tộc của mình.
“Cứ mỗi lần được khoác lên mình bộ trang phục dân tộc tôi cảm thấy rất tự hào, phấn khởi. Mỗi dân tộc đều có nét đẹp đặc trưng riêng, mỗi hoa văn, mỗi màu sắc trên trang phục đều đem lại sắc màu sinh động, hấp dẫn và mang một ý nghĩa riêng biệt gắn với đời sống thường ngày người Khơ Mú. Vì thế, để gìn giữ những nét đẹp văn hóa, nhất là trang phục truyền thống, thế hệ trẻ người Khơ Mú cần phát huy giá trị truyền thống dân tộc, yêu quý và trân trọng những nét đẹp tinh túy trong trang phục của dân tộc mình”, chị Tiên hồ hởi chia sẻ.
Theo bà Lò Hồng Nhung, Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Tuần Giáo, trang phục là một thành tố văn hóa quan trọng và không thể thiếu trong di sản văn hóa truyền thống, rất dễ nhận biết của mỗi dân tộc. Trang phục truyền thống không chỉ mang đậm bản sắc dân tộc mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử, là thông điệp của quá khứ để lại cho ngày nay.
"Tại huyện Tuần Giáo, không riêng gì dân tộc Khơ Mú, để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa từ trang phục truyền thống, những năm qua ngoài đẩy mạnh tuyên truyền, Phòng Văn hóa - Thông tin đã phối hợp giữ gìn, bảo tồn trang phục, đưa trang phục truyền thống dân tộc vào các trường học. Đồng thời, xây dựng, tham mưu cho huyện ban hành cơ chế, chính sách cho các nghệ nhân, người tổ chức thực hành, trao truyền, bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc nói chung và trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số nói riêng...”, bà Nhung cho biết.
Ngoài trang phục truyền thống, với nhiều nét sinh hoạt văn hóa truyền thống đa dạng, phong phú và giàu bản sắc, người Khơ Mú cũng khá nổi bật với nhiều lễ hội như: Lễ cầu mưa, Lễ cầu mùa, Lễ cúng bản, Lễ mừng cơm mới. Có thể thấy rằng, mỗi dân tộc có những phong tục tập quán riêng đi cùng với đó là những trang phục mang dấu ấn, hơi thở và là linh hồn của dân tộc... góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, phát triển trang phục truyền thống thành một sản phẩm du lịch hấp dẫn, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội từ nền tảng truyền thống, thích ứng với sự phát triển chung trong thời kỳ mới.