Người lính duy nhất sống sót diệu kỳ của đại đội 40 người giữa cánh đồng máu Campuchia
Trận chiến chỉ kéo dài 10 phút trên cánh đồng Campuchia năm 1986, cả đại đội, 39 người ngã xuống, chỉ một người sống sót - ông Huỳnh Văn Châu.
Tìm được ông Huỳnh Văn Châu không dễ.
Ba tháng trời, chúng tôi lần theo từng manh mối rời rạc. Một dòng tên trong danh sách thương binh, vài dòng chú thích trong hồ sơ cũ, rồi những cú điện thoại tưởng chừng vô vọng. “Ông ấy mất rồi đó”, một cựu chiến binh nói, “mà nếu còn thì ẩn lắm, chẳng bao giờ kể chuyện cũ”.
Thế rồi, một buổi chiều giữa mùa mưa tháng Mười một, chúng tôi tìm thấy ngôi nhà nhỏ ở xã Thường Tân (Bình Dương cũ), cách trung tâm TP.HCM chừng 70km. Con đường dẫn vào nhà quanh co, hai bên là rừng cao su già, lá rụng vàng cả lối.
Ông Châu mở cửa, mắt sâu, tóc hoa râm. Khi biết chúng tôi đến để hỏi về trận chiến năm 1986, ông im lặng rất lâu. Ánh mắt trượt ra phía cánh rừng trước nhà, nơi chiều đang xuống.
“Bốn mươi người đi, chỉ mình tôi về!”.

Cựu chiến binh Huỳnh Văn Châu.
Cánh đồng máu
Buổi sáng nơi biên giới Campuchia oi nồng và đặc quánh hơi đất. Không một cơn gió. Tiếng dế và tiếng kim khí va vào nhau nghe rợn người. Trung đoàn 4, Sư đoàn 5 - đơn vị của người lính Huỳnh Văn Châu vừa rời mặt trận Battambang, nhận lệnh hành quân gấp sang Siem Reap, tiếp ứng cho Sư đoàn 302 đang siết chặt vòng vây quân Pol Pot.
Đêm ấy, đại đội 13 của tiểu đoàn 3 cơ động gần như không ngủ. Hành quân suốt đêm, đến rạng sáng 29 thì dừng bên bờ sông Loong Vien. Trời còn đẫm sương, mờ đặc hơi nước. 4 giờ 50 phút, toàn đơn vị được lệnh vượt sông. Trong danh sách điểm danh sáng đó có 52 người, bao gồm cả tiểu đoàn phó trực tiếp chỉ huy hành binh.
Chiếc ghe gỗ chở từng tốp người lặng lẽ qua sông. Tiếng mái chèo gõ khẽ vào nước như tiếng nhịp tim dồn dập trước giờ chiến đấu. Người lính bọc hậu cuối cùng vừa chạm bờ thì tín hiệu được truyền đi: Toàn đại đội đã sang bờ bên kia. Trung đội 8, gồm 12 người, được lệnh ở lại giữ bến, đề phòng quân địch quay lại cài mìn. Còn 40 người còn lại, gồm hai trung đội 7 và 9, lập tức men theo đường ruộng, tiến sâu vào hướng địch.
Họ đi qua rặng tre thấp, ướt sương, rồi mở ra trước mắt là một cánh đồng bỏ hoang. Đất khô nứt nẻ, lúa dại mọc lưa thưa. Trống trải đến mức người lính có thể nhìn thấy tận đường chân trời. Chính cái quãng trống yên ắng ấy khiến ai nấy đều tin rằng trận này sẽ dễ dàng.
Khi bóng vài tên địch thấp thoáng nhấp nhô ở phía xa, đơn vị nhận lệnh dừng lại, dàn đội hình dọc theo một gờ đất lúp xúp, cao chưa tới đầu gối. Họ nằm xuống, súng lăm lăm chĩa về phía trước, chờ tín hiệu khai hỏa. Đội hình giăng cánh cung, sẵn sàng chặn đường rút lui của địch.
“Vào vị trí, đại đội chúng tôi chỉ thấy hai bóng lính địch thấp thoáng phía xa. Rồi chỉ huy dặn ‘Cứ để chúng tới gần 100 mét rồi nổ súng, hốt trọn ổ’. Ai cũng nghĩ đó là một trận dễ, ăn gọn trong chớp mắt”, ông kể lại.
Hỏa lực trong tay những người lính lúc đó nghèo nàn đến tội nghiệp. Ngoài AK cá nhân chỉ có một khẩu cối 62 ly và một khẩu đại liên duy nhất. Ông Châu được chọn là xạ thủ đại liên, vì ông khỏe, nhanh, và đã từng qua bốn trận đánh lớn dù mới đặt chân sang chiến trường Campuchia chưa đầy hai tháng.
Phía bên kia, quân Pol Pot mạnh gấp nhiều lần. Chúng được Trung Quốc viện trợ đầy đủ: B40, B41, cả B10 cỡ 82 ly, loại có sức công phá ngang DKZ của ta.

Ông nhớ về 39 năm trước, ngày 39 đồng đội của ông hy sinh trên cánh đồng máu.
Thời điểm đó, quân tình nguyện Việt Nam đã bao vây gần trọn sư đoàn của Pol Pot. Đại đội 13 chỉ được giao án ngữ ở một hướng đồng trống, tưởng như yên bình. Không ai ngờ, chính nơi ấy, giữa vùng đất phẳng lặng tưởng chừng vô hại lại là nơi cửa tử mở ra cho 40 người lính.
“Vài phút sau, từ phía sau hai tên địch ấy, hàng trăm bóng đen tràn ra như nước vỡ đập. Tiếng chân, tiếng thét, tiếng pháo dội lại như sấm”, ông nhớ lại.
Ông Châu siết cò khẩu đại liên, nhưng viên đạn đầu tiên không nổ. Súng kẹt. Một xạ thủ dự bị tiến lên hỗ trợ ông tháo viên đạn kẹt thì bị đạn của địch ghim vào người, chết trước mắt ông.
Giữa cơn hỗn loạn, cơ thể chi chít mảnh đạn găm lên, ông buộc phải rút về. Dù vậy, ông vẫn cố tháo khẩu đại liên, ôm theo nòng súng nặng gần 16kg. Đồng đội ông, những người vừa hát vừa hành quân sáng đó, vẫn xông lên, tiếng AK, B40 hòa lẫn tiếng gào thét.
Chỉ trong mười phút, cánh đồng biến thành biển lửa. Đất bắn tung, thân người đổ gục, máu hòa cùng bùn đất. Khói thuốc súng mù mịt, mùi khét lan khắp không trung. Tiếng gọi “Mẹ ơi!”, “Anh em ơi!” dội vào nhau như sóng.
Người tiểu đội trưởng trúng đạn ở ngực, gục xuống, vẫn cố giơ tay ra hiệu cho anh em rút lui. Một người khác chạy đến kéo xác bạn, chưa kịp cúi xuống thì một loạt đạn quét ngang, cả hai cùng đổ.
Ông bò về phía họ, nhưng đạn vẫn rít quanh đầu. Tiếng pháo, tiếng AK, tiếng người gào xen lẫn. Chỉ huy tiểu đoàn, đại đội chưa kịp xin chi viện cũng bị đạn B40 dội vào đầu.Tiểu đoàn 1 gần đó dù muốn, nhưng không thể chi viện pháo binh vì chưa biết chính xác tọa độ, sợ bắn lẫn vào chính quân mình.
“Chỉ trong mười phút thôi”, ông nói, “ba mươi chín người… nằm lại cả”.
Sống sót
Không ai tin rằng một người có thể sống sót giữa địa ngục ấy. Nhưng bằng phép màu của bản năng sinh tồn, ông Châu còn thở.Khi địch tràn tới, ông Châu nằm sát đất, giữa những thi thể. Chúng hò hét, lùa nhau đi kiểm tra từng người. Mỗi xác chết, chúng bắn thêm năm phát vào đầu, như để chắc rằng không ai còn sống.
“Tôi nghe rõ tiếng đạn xuyên vào sọ, tiếng óc văng xuống đất ướt như bùn. Mùi máu, mùi thuốc súng, mùi thịt người cháy…”, ông ngừng, giọng khản đặc.
Chúng kéo xác đồng đội ông lại thành đống, chất như củi ướt. Ông nằm ngay dưới chân đống xác đó, giả chết.

Ký ức về cánh đồng máu vẫn in rõ mồn một trong tâm trí ông.
“Chỉ cần tôi thở mạnh một cái thôi, là viên đạn kế tiếp vào đầu. Có đoạn, tôi thấy một tên lính đã nhìn thẳng vào tôi, hắn lên đạn, và tôi nghĩ mình sẽ chết sau khoảnh khắc đó. Nhưng không hiểu sao hắn rời đi”.
Cánh đồng hôm ấy nhuộm đỏ. Máu loang như tấm thảm dày, ruồi bu kín. Mặt trời lên giữa mùi tử khí. Đó là lúc ông Châu hiểu đại đội 13 đã tan biến.
Khi địch rút đi, trời đã sụp tối. Ông bò dậy, người dính đầy máu và bùn, những mảnh đạn găm kín thân thể.
Ông tìm được một xác lính Polpot còn nguyên quần áo, lột mặc vào người mình, rồi lê ra khỏi đống xác, lần theo ánh lửa yếu ớt của hướng trung đoàn.
“Tôi mặc đồ lính địch vào trong, đồ bộ đội mình bên ngoài. Nếu gặp địch, tôi cởi giấu đồ mình rồi nói mình là lính Pol Pot”, ông ngưng lại, rồi tiếp “May mà tôi nói sõi tiếng Campuchia”.
Ông cứ thế đi xuyên qua xác người, qua những hố đạn vẫn còn khói. Mỗi bước đi là một cơn đau thấu óc, nhưng có lẽ bản năng sinh tồn và “lời gọi” của đồng đội đã kéo ông trở về.
Qua một đêm, tới sáng hôm sau, ông mới gặp được một tổ trinh sát ta. Họ nhìn ông, ngỡ là lính địch, suýt nổ súng. Ông gào lên: “Đừng bắn! Tôi là Châu, đại đội 13!”.
Câu nói ấy, theo ông, là lần đầu tiên và cũng là cuối cùng ông khóc trên chiến trường.
Chiều đó, khi vết thương vẫn còn rỉ máu, ông xin được quay lại cánh đồng, nơi trung đoàn đang “gom” chiến sĩ tử trận. 39 thi thể lính Việt Nam bị quân Pol Pot gom lại, chất thành đống, bên dưới là mìn. Không ai cất lời. Bộ đội ta cùng nhau tháo từng quả, nhấc từng thân người.
“Thật ra lúc tôi quay lại, là có 40 thi thể. Nghĩa là lẫn một xác tên Pol Pot vào, họ tưởng là tôi”, ông nói.
Trận địa như vừa bị cày nát bởi ngàn lưỡi đạn. Đất, máu và thịt hòa vào nhau thành lớp bùn đặc quánh. Không một khuôn mặt nào còn nguyên vẹn để nhận dạng. Những người lính đi tìm chỉ biết dựa vào mảnh áo, chiếc bi đông hay thẻ bài để gọi tên từng đồng đội.
Ít lâu sau, chỉ huy sư đoàn 5 tìm đến ông Châu. Người sĩ quan già siết chặt vai người lính trẻ: “Anh đã làm đủ rồi. Muốn rời vị trí hay xin giải ngũ, anh đều có quyền. Chúng tôi sẽ đáp ứng hết!".

Ở tuổi 60, ông vui vầy bên con cháu.
Ông chỉ nhìn thẳng, giọng chắc nịch: “Tôi còn nợ họ một điều, đó là tiếp tục chiến đấu”. Cứ thế, ông trở lại đơn vị khi vết thương còn rỉ dịch. Được đề bạt làm khẩu đội trưởng cối 62, ông lại cùng đồng đội mới hành quân qua những cánh rừng, những vùng đất vẫn nặng mùi thuốc súng.
Giờ đây, trong căn nhà nhỏ ở Thường Tân, ông Châu sống cùng ký ức. Những năm qua, ông nhiều lần trở lại Campuchia, thăm nơi đồng đội ngã xuống.
Bàn tay từng bóp cò, giờ run run nâng chén trà. Mùi khói súng dường như vẫn còn quanh đây, ông nói: “Đến bây giờ, tôi cũng không thể lý giải sự sống sót kỳ diệu của chính mình. Có lẽ, tôi được chọn sống, là để kể lại cho mọi người nghe”.












