Nhà khoa học với đam mê làm sống lại những vùng đất chết
Đó là PGS.TS Ngô Thị Thúy Hường (Khoa Công nghệ Sinh học, Hóa học & Kỹ thuật Môi trường, Đại học Phenikaa), tác giả dự án trồng cỏ Vetiver để giảm thiểu chất độc dioxin tại sân bay Biên Hòa (Đồng Nai), một dự án mang ý nghĩa nhân văn cao cả phụng sự cộng đồng, đã mang về cho chị và cộng sự Giải thưởng King of Thái Lan Vetiver 2023 danh giá, do vua Thái Lan trao tặng. Chị cũng là tân Phó Giáo sư năm 2025.
1. Nhắc tới án trồng cỏ Vetiver để xử lý chất dioxin, PGS.TS Ngô Thị Thúy Hường cho tôi xem bản thuyết minh ngắn gọn về dự án, dài chỉ hơn 1 trang, nhưng 1 trang giấy đó làm sao có thể lột tả hết biết bao khó nhọc, vất vả và cả những rủi ro nghề nghiệp mà chị và cộng sự đã trải qua đằng đẵng trong nhiều năm tháng khi thực địa tại sân bay Biên Hòa - một sân bay mà nhiều vùng có nồng độ dioxin cao gấp 400 lần mức an toàn.

PGS.TS Ngô Thị Thúy Hường luôn tìm thấy niềm vui trong nghiên cứu khoa học.
Đã có nhiều năm học tập và làm việc tại nước ngoài (học thạc sĩ tại Bỉ và bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đức, đều liên quan đến chuyên ngành Độc học sinh thái và Môi trường - PV), chị Hường biết cây cỏ Vetiver là “cây cỏ thần kỳ”, được sử dụng nhiều ở Ấn Độ, Thái Lan, Úc trong chống xói mòn, xử lý ô nhiễm môi trường nước và đất. Ở Ấn Độ, vì những “hương liệu thần kỳ” và nhiều tinh dầu ở bộ rễ cỏ Vetiver mà người dân Ấn Độ dùng loại cỏ này để điều chế nước hoa.
Thêm nữa, với bộ rễ chùm “khủng” có thể ăn sâu vào lòng đất tầm 5m, cây cỏ này có sức sống rất bền bỉ, có khả năng sinh trưởng bền bỉ trong nhiều điều kiện khắc nghiệt: đất nhiễm mặn, đất cát bạc màu, môi trường axit và kiềm. Từ những hiểu biết này, chị và cộng sự đã tập trung nghiên cứu giải pháp ứng dụng cỏ Vetiver trong phục hồi đất ô nhiễm dioxin, một phương pháp chi phí thấp, dễ triển khai và thân thiện với môi trường.
Nếu như Công nghệ khử hấp thu nhiệt tại mố (IPTD) có chi phí rất cao, (khoảng 50.000 - 100.000 USD/m³), thì phương pháp trồng cỏ Vetiver này chỉ tốn khoảng 2 USD/m³, rẻ hơn 25.000 lần, cho phép áp dụng trên quy mô lớn.
Qua 7 năm thử nghiệm trên các ô 200 m² (giai đoạn 1) và 300 m² (giai đoạn 2), kết quả cho thấy đất đã giảm 40% dioxin, giảm xói mòn gấp 3 lần, khả năng tích lũy dioxin ở rễ cao hơn 100 lần và sự đa dạng và hoạt động của vi sinh vật trong quyển rễ tăng rõ rệt.
Kết quả này không chỉ khẳng định tiềm năng của một giải pháp bền vững và dựa vào cộng đồng mà còn mở ra hướng tiếp cận mới thay thế cho công nghệ xử lý truyền thống đắt đỏ. Dự án còn phục hồi đất ô nhiễm, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và biến các vùng đất từng chịu ảnh hưởng bởi chiến tranh thành biểu tượng của sự tái sinh.
PGS.TS Ngô Thị Thúy Hường chia sẻ, dự án trồng cỏ được chị nghiên cứu từ năm 2014 đến năm 2023, và được một tổ chức quốc tế tài trợ kinh phí. Gần 10 năm, chị không thể nhớ được bao nhiêu ngày chị và cộng sự lăn lộn tại sân bay Biên Hòa, đi vào những vùng cỏ lau rậm rạp để khảo sát, chọn vùng thí nghiệm và lấy mẫu đất với bộ đồ bảo hộ đặc chủng. Có đồng nghiệp của chị, vì không chịu nổi cái nóng như đổ lửa ở sân bay, trong bộ trang phục kín mít mà bị ngất xỉu.
“Đất ở sân bay thì vô cùng cứng, tôi phải dùng máy khoan để lấy mẫu đất. Quy trình xử lý mẫu đất sau đó cũng rất vất vả. Ròng rã nhiều tháng trời làm việc trong điều kiện khắc nghiệt, nhưng những khó khăn không làm chúng tôi nản lòng, đặc biệt khi giai đoạn 1 của dự án (2014-2016) bước đầu chứng minh được cỏ Vetiver có khả năng chống lan tỏa dioxin ra vùng đất xung quanh, làm giảm nhẹ mức độ ô nhiễm xuống khoảng 38% so với ban đầu. Những kết quả đó rất quan trọng với chúng tôi vì khi bắt đầu thực hiện dự án, đã có ý kiến nghi ngại cho rằng cây cỏ đó không thể hấp thụ được các chất cao phân tử như dioxin nên không thể xử lý được ô nhiễm hợp chất này”, PGS.TS Ngô Thị Thúy Hường trải lòng.
Những giá trị khoa học của dự án đã đưa đến cho PGS.TS Ngô Thị Thúy Hường và cộng sự Giải thưởng King of Thái Lan Vetiver 2023. Trong quá trình thực hiện, nhóm nghiên cứu đã công bố 7 bài báo khoa học, đào tạo 2 tiến sĩ, 4 thạc sĩ, thể hiện năng lực xuất sắc của lĩnh vực STEM trong phục hồi môi trường.
Dự án còn có ý nghĩa về mặt kinh tế khi chi phí trồng cỏ Vetiver để xử lý dioxin rẻ hơn khoảng 25.000 lần so với công nghệ nhiệt phân, mở ra khả năng xử lý cho những vùng đất nhiễm độc các chất hữu cơ khó phân hủy ở quy mô lớn, cho các nước đang phát triển. Dự án còn được ghi nhận như biểu tượng hợp tác và hàn gắn sau chiến tranh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Sau thành công này, dự án đã được giới thiệu tại 33 hội thảo trong nước và quốc tế. Dự án còn hợp tác với Đại học Tự do Brussels (Bỉ), Đại học Waterloo (Canada) và các đối tác Thái Lan nhằm mở rộng ảnh hưởng toàn cầu của cỏ Vetiver trong xử lý ô nhiễm. Mô hình này có thể mở rộng tại các điểm nóng dioxin ở Việt Nam và trên toàn cầu, đánh dấu một bước ngoặt trong công nghệ xử lý môi trường dựa vào tự nhiên.
2. Kể từ khi tốt nghiệp Kỹ sư ngành Nuôi trồng thủy sản năm 1997, đến nay, PGS.TS Ngô Thị Thúy Hường đã có gần 30 năm nghiên cứu, theo đuổi đam mê về bảo vệ môi trường. Sau khi bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ tại CHLB Đức năm 2008, chị đã từ chối nhiều lời mời, chọn con đường về nước để cống hiến cho quê hương.
Tháng 5/2020, chị chính thức trở thành giảng viên cơ hữu tại Khoa Công nghệ sinh học, Hóa học và Kỹ thuật Môi trường, Đại học Phenikaa, đồng thời chị giữ vị trí Trưởng Nhóm nghiên cứu “Hóa học môi trường và Độc học Sinh thái”, tập trung nghiên cứu hai lĩnh vực chính: Sức khỏe môi trường và Độc học Sinh thái; Quản lý chất thải rắn và phát triển các công nghệ xử lý ô nhiễm thân thiện với môi trường, nhằm giải quyết các thách thức môi trường hiện nay tại Việt Nam.
Nhóm chị cũng là những nhà khoa học Việt Nam đầu tiên công bố bài báo trên tạp chí “Journal of Hazardous Materials Letters” về sự hiện diện của vi khuẩn kháng kháng sinh trên bề mặt vi nhựa và mối liên hệ giữa vi nhựa và kháng kháng sinh

PGS.TS Ngô Thị Thúy Hường nhận Giải thưởng King of Thái Lan Vetiver 2023, do vua Thái Lan trao tặng.
Có một dự án mà chị từng thực hiện thành công: “Đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường lên một số loài cá ở lưu vực sông Nhuệ - Đáy”. Theo chị, nhiều nghiên cứu trong nước mới dừng ở đo đạc thông số trong đất, nước, nên người dân chưa thấy hết được sự nguy hiểm của ô nhiễm, chưa hiểu được sự cấp bách của bảo vệ môi trường và cũng chưa thay đổi thói quen, đặc biệt là thói quen ăn uống và tiêu dùng có trách nhiệm.
Để chỉ ra tác động của ô nhiễm lên sức khỏe của động vật thủy sinh và mối nguy tiềm tàng đối với người tiêu dung sản phẩm thủy sản, chị sử dụng “dấu ấn sinh học” trong cá - thứ phản ánh trực tiếp rủi ro sức khỏe và chị chọn ba loài là cá chép, mè trắng và rô phi.
Muốn nghiên cứu được thì phải ra hiện trường lấy mẫu đúng quy cách, vì thế nhiều ngày, cứ 3h sáng, chị và học trò lại ra các bến cửa sông Liên Mạc (quận Bắc Từ Liêm cũ), sông Đáy (đoạn chảy qua huyện Thanh Oai cũ), đoạn sông Đáy chảy qua khu vực Siêu Quần (xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì cũ), Phủ Lý, Ninh Bình (Hoa Lư) và Nam Định (Nghĩa Lạc). Tại đây, cô trò lấy mẫu nước, bùn đáy và mẫu cá (mua của thuyền chài hoặc trong ao của người dân).
Lấy được mẫu chỉ là bước đầu. Để cá không chết trên đường về phòng thí nghiệm, chị phải mua bình oxy bơm vào túi nước. Có những ngày chị miệt mài làm việc đến 8 - 9 giờ tối. Một lần thu mẫu thường kéo dài 7 - 10 ngày.
Dự án cho kết quả xác đáng: mức độ ô nhiễm trong nước, bùn và trong mô cá đều có mối quan hệ chặt chẽ với dấu ấn sinh học trong cá và tương đồng với kết quả nghiên cứu tại Bỉ. Số liệu cho phép xây dựng mô hình toán đánh giá nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe người dân khi tiêu thụ cá bị nhiễm độc kim loại. Kết quả cũng nhằm đưa ra khuyến cáo về việc tiêu thụ cá an toàn cho người dân (ăn cá như thế nào cho đúng cách), cũng như cảnh báo sớm các mối nguy và cả những khuyến nghị trong phát triển thủy sản bền vững.
Hiện PGS.TS Ngô Thị Thúy Hường mở rộng sang hướng nghiên cứu ứng dụng Độc học Sinh thái trong nghiên cứu y sinh và bảo vệ môi trường. Chị cùng cộng sự đã nghiên cứu thành công dự án “Nguồn phát thải, nơi tích tụ và các giải pháp nhằm giảm thiểu tác động của rác thải nhựa đến cộng đồng ven biển ở Việt Nam (3SIP2C)”.
Những số liệu thể hiện qua dự án cho thấy sự dày công và nghiên cứu nghiêm túc của PGS.TS Ngô Thị Thúy Hường (như chị đã thu thập 1.923 mẫu môi trường (nước, trầm tích) và 53 mẫu cá tại 24 điểm dọc bờ biển Nam Định, Ninh Bình, Cát Bà, Hà Nội, Hà Nam; thực hiện 720 cuộc khảo sát tại 4 vùng kinh tế thủy sản (Nam Định, Hải Phòng, Bến Tre, Bà Rịa - Vũng Tàu) và 270 tàu đánh cá mùa khô - mùa mưa 2024), đã tổ chức tập huấn nâng cao nhận thức của người dân về ô nhiễm nhựa, về tác hại của vi nhựa và thay đổi hành vi sử dụng nhựa.
Và dự án này đã đạt Hạng mục Giải thưởng Principles Research Impact and Engagement tại PRIME Awards 2023 và Giải thưởng Involve tại PRIME Awards 2025. Đây là sự ghi nhận xứng đáng cho những nỗ lực bền bỉ của chị vì mục tiêu: Người dân Việt Nam được sống khỏe mạnh, hạnh phúc trong môi trường sạch, an lành.













