Nỗi nhớ quê xứ trong thơ Nguyễn Hữu Thụy
Với Nguyễn Hữu Thụy, quê xứ không chỉ là một nơi chốn địa lý. Đó là miền gốc rễ tinh thần, là điểm neo giữ căn cước, là nơi mọi giấc mơ, mọi mất mát, mọi vết thương dường như đều có thể gọi tên.
Nguyễn Hữu Thụy làm thơ như một kẻ tha phương chống lại cơn quên. Ông viết để giữ lại một phần máu thịt đã từng lăn lóc nơi chốn cũ, để không đánh rơi những tên làng, con sông, mái trường, lũ bạn. Và hơn hết, để giữ cho lòng mình khỏi hoang vu trong cõi đời mưu sinh. Trong thế giới thi ca của ông, quê hương không phải là một điểm đến, mà là một vết hằn, một dằng dai ký ức, một vùng sáng nhòe ấm nóng vẫn luôn lặng lẽ cháy trong trái tim người đi xa.

Chân dung nhà thơ Nguyễn Hữu Thụy - Ảnh: FBNV
Sinh năm 1954 tại Đại Cường, Đại Lộc, Quảng Nam, trưởng thành giữa chiến tranh và chia ly, Nguyễn Hữu Thụy rời quê từ rất sớm. Năm 1965, ông ra Đà Nẵng học trung học tại trường Đông Giang (nay là trường Hoàng Hoa Thám) sau đó chuyển sang trường Phan Chu Trinh. Sau khi lấy bằng tú tài toàn phần, năm 1972 ông rời quê vào Sài Gòn, mưu sinh bằng đủ nghề, từ dạy học đến làm báo. Suốt hơn nửa thế kỷ sống nơi đất khách, ông không bao giờ thôi ngoái đầu về phía núi. Cái quê trong thơ ông không chỉ là một nơi chốn địa lý. Đó là miền gốc rễ tinh thần, là điểm neo giữ căn cước, là nơi mà mọi giấc mơ, mọi mất mát, mọi vết thương dường như đều có thể gọi tên.
"Ta đã bỏ quê đi biền biệt
Máu và nước mắt chảy ngàn xuôi
Sông Thu ngầu đục dòng nước xiết
Thơ đẫm trầm luân những phận người".
Ở đây, thơ không còn là thú chơi chữ nghĩa mà trở thành chứng tích của một thân phận. Câu thơ dường như không được làm ra mà được sinh ra từ một trái tim nặng trĩu, từ những năm tháng sống xa quê mà lòng thì chưa bao giờ yên. Dòng sông quê trong ký ức ông không còn trong lành, hiền hòa, mà đã mang màu ngầu đục, bị cuốn xiết trong máu và nước mắt. Đó là cái nhìn của một người từng đi qua biến cố, đã nếm mùi mồ hôi và giọt đắng, đã biết rõ thơ là nơi trú ngụ cuối cùng cho những điều không thể nói thành lời.

Tập thơ Nín thở (NXB Đà Nẵng, 2023) của Nguyễn Hữu Thụy
Thơ Nguyễn Hữu Thụy không cần những cú đảo vần kỹ thuật, không cần hình ảnh ẩn dụ cầu kỳ. Ông chỉ gọi tên những gì đã từng chạm vào đời sống mình, một cách giản dị, chân thành mà cũng đầy đau đớn. Có lẽ vì thế, thơ ông không ồn ào trên báo chí, không xuất hiện nhiều trong các cuộc bình giảng, nhưng luôn âm thầm rút tủy người đọc. Mỗi câu thơ là một mảnh vụn ký ức được nhặt lại từ tro tàn của thời gian.
"Ta về thắp nén nhang
Trên bàn thờ cũ
Nơi cha từng nói:
‘Răng mi không về?".
Người trở về trong thơ ông không mang dáng vẻ của cuộc thăm thú, mà là người đi muộn, mang trong lòng một tiếng gọi âm thầm không dứt. Câu hỏi của người cha như một lời nhắc nhẹ mà day dứt, một nỗi dằn vặt suốt đời. Những ai từng xa quê, từng trải qua một cái tết không về, từng vắng mặt trong ngày giỗ cha sẽ hiểu vì sao chỉ một câu nói ấy cũng đủ khiến người đàn ông mang cả tuổi trẻ đi mưu sinh phải đứng lặng hồi lâu trước một bàn thờ phủ bụi.
Nỗi nhớ trong thơ ông không phải là một xúc cảm nhất thời, mà là một căn tính. Nó không vút cao thành khúc ca hoài cổ, mà rỉ rả như mạch nước ngầm, len vào từng con chữ, thấm vào từng nhịp thở. Đó là thứ nhớ không cần phải diễn đạt, nhưng vẫn hiện lên bền bỉ và âm ỉ, khiến người ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ.
"Phước ba đời, ta nhờ chút ơn trên
Sống sót đến giờ làm thơ uống rượu
Giữ nguyên họ tên đi cùng tứ xứ
Thật lòng mình vì yêu chữ tự do".
Cái tự do mà ông nhắc đến không phải là tự do hình thức, càng không phải thứ tự do được mua bằng tiếng vỗ tay. Đó là tự do của người biết rõ mình từ đâu mà đến, tự do của kẻ không từ bỏ quê nhà dù phải sống như người xa lạ giữa phố thị. Trong một thế giới ngày càng ưa phẳng, khi nhiều người sẵn sàng xếp lại gốc gác để dễ sống hơn, thì sự khư khư giữ gìn một cái tên, một giọng nói quê mùa, một nếp nghĩ cũ kỹ, cũng đủ để trở thành một tuyên ngôn thầm lặng.

Nhà thơ Nguyễn Hữu Thụy dưới chân tượng chí sĩ Phan Chu Trinh
Không ít người làm thơ hôm nay vẫn mong tìm cho mình một vị trí bằng cách gia nhập các hội đoàn, xin một tấm thẻ hội viên, hoặc chí ít là một giải thưởng. Thơ, trong nhiều trường hợp, đã trở thành phương tiện để hiện diện, để khẳng định cái tên ngoài trang viết. Giữa xu thế ấy, Nguyễn Hữu Thụy lại chọn cho mình một lối đi khác. Ông không vào bất kỳ hội nào, cũng không màng danh xưng. Ông sống với thơ như sống với chính mình. Thơ không phải là cánh cửa để bước lên, mà là lối trở về của những gì từng bỏ lại. Với ông, thơ là nơi trú ẩn sau cùng của căn cước.
Nguyễn Hữu Thụy viết bằng một giọng nói riêng, không bị hòa lẫn, không cần khuếch đại. Thơ ông mọc lên từ đất, từ giọt mồ hôi lấm tấm trong ký ức người mẹ, từ tiếng gà gáy sớm bên hàng dậu, từ ánh lửa bếp chiều giữa những ngày giáp Tết, từ lời hò con sông quê cũ, và từ tiếng lặng thinh của người cha đã khuất.
Khi thơ đã rời bỏ sự trau chuốt hình thức để quay về với sự thật, với những điều làm người ta nghẹn ngào lúc một mình, thì nó mới đủ sâu để ở lại. Thơ Nguyễn Hữu Thụy chính là như thế. Không hào nhoáng, không ngụy tạo. Chỉ là những mảnh đời thật, nhưng mỗi khi đọc lại, ta thấy có gì nhói lên ở nơi tưởng đã hóa đá trong lòng.
Giữa một thời buổi mà thơ đang bị sử dụng để làm trò tiêu khiển, để phô diễn hoặc gây chú ý, tiếng thơ lặng lẽ của Nguyễn Hữu Thụy nhắc chúng ta một điều giản dị. Hãy làm thơ như thể còn một quê hương để trở về. Bởi thơ, suy cho cùng, không phải để được tung hô, mà để giữ lại một vùng ánh sáng lặng lẽ, nơi con người còn có thể được gọi đúng tên mình.
Và nếu có một điều gì thiêng liêng nhất mà một nhà thơ có thể làm được, thì Nguyễn Hữu Thụy đã làm điều đó, bằng chính sự thủy chung với tiếng gọi từ quê nhà.
Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/noi-nho-que-xu-trong-tho-nguyen-huu-thuy-232949.html