Nông nghiệp tuần hoàn bắt đầu lan tỏa từ những cánh đồng ở miền Tây
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp và thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050. Việc quản lý rơm rạ được xác định là một trong những trụ cột quan trọng của chuyển đổi xanh, giảm phát thải và nâng cao giá trị chuỗi ngành hàng trong thời gian tới.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp, việc thay đổi nhận thức về rơm rạ được nhấn mạnh là điều kiện tiên quyết. Rơm rạ phải được coi là tài nguyên sinh khối, không phải phụ phẩm “dùng được tới đâu hay tới đó”. Mỗi năm Việt Nam tạo ra khoảng 43 đến 45 triệu tấn rơm rạ, riêng ĐBSCL chiếm khoảng 25 đến 28 triệu tấn; trên toàn cầu con số này lên đến gần 900 triệu tấn. Nếu xử lý sai cách (đốt hoặc vùi trong nước), mỗi tấn rơm sẽ tạo ra phát thải từ 1,2–1,5 tấn CO₂ tương đương, tạo áp lực lớn lên mục tiêu giảm phát thải toàn cầu.

Mỗi năm vùng ĐBSCL tạo ra khoảng 25 đến 28 triệu tấn rơm
Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp Tiến Thuận (Cần Thơ) tận dụng rơm rạ làm nấm rơm, phân hữu cơ, giúp nông dân tăng thu nhập và giảm chi phí phân bón hóa học đến 63%. Nhờ hệ thống ruộng liền thửa, gần nhà dân và đường bộ, đường thủy thuận tiện, việc thu gom rơm rạ hiệu quả, sử dụng lao động địa phương.
Sản phẩm phân hữu cơ và giá thể trồng nấm tiêu thụ hết tại chỗ, phản hồi tích cực, hiệu quả kinh tế cao. Ý thức nông dân thay đổi, từ đốt rơm sang bán hoặc cung cấp cho HTX, coi rơm là nguồn thu mới. Quy mô HTX mở rộng từ 50 ha lên 122 ha, diện tích liên kết đạt 512 ha. Ông Nguyễn Cao Khải, Giám đốc HTX cho biết, HTX còn gặp khó khăn về vốn, máy móc và điểm tập kết. Cần thêm tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ ngân hàng, quỹ đất để mở rộng mô hình kinh tế tuần hoàn bền vững.
"Thị trường đang hướng về các sản phẩm hữu cơ, cho nên việc sản xuất phân hữu cơ rất thuận tiện ở địa phương, nguồn nguyên liệu dồi dào. Từ trước giờ bà con thu hoạch xong 80% rơm rạ là đốt, nhưng từ khi hợp tác xã ra đời và có sự phối hợp tập huấn thì bà con đã ý thức được", ông Khải cho biết.

Nông nghiệp tuần hoàn bắt đầu lan tỏa từ những cánh đồng ở miền Tây
Cần Thơ là một trong những địa phương đầu tiên triển khai mô hình nông nghiệp tuần hoàn từ rơm rạ và đã cho thấy nhiều kết quả rõ rệt. Mô hình giúp thay đổi tư duy của nông dân, từ tập quán đốt rơm sang thu gom để tạo ra các sản phẩm giá trị gia tăng. Nông dân tận dụng được lao động địa phương, nhất là lao động nữ, tham gia sản xuất nấm rơm, phân hữu cơ, qua đó tăng thêm thu nhập.

Rơm được người dân thu gom ra khỏi đồng ruộng
Bà Phạm Thị Minh Hiếu, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Cần Thơ cho biết, nông dân đã giảm sử dụng phân hóa học, chuyển sang phân hữu cơ từ rơm, cải thiện sức khỏe và chất lượng môi trường. Tuy nhiên, không phải hợp tác xã nào cũng triển khai được mô hình vì yêu cầu cao về nguồn lực, công nghệ, trình độ quản lý và mặt bằng. Sự đồng thuận trong nội bộ HTX cũng là yếu tố then chốt.
Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp Cần Thơ sẽ lựa chọn HTX đủ điều kiện về năng lực, mặt bằng và sự đồng thuận để hỗ trợ triển khai, đồng thời tạo điều kiện tiếp cận vốn và nâng cao năng lực kỹ thuật, đảm bảo mô hình nông nghiệp tuần hoàn phát triển bền vững.
"Trong mô hình này cũng đã cho thấy nhiều kết quả. Thứ nhất là thay đổi được tư duy của người nông dân, có xu hướng thu gom rơm để thực hiện các hoạt động khác. Thứ hai là thực hiện mô hình nông nghiệp tuần hoàn thì nông dân sử dụng được lao động địa phương để tăng thêm thu nhập, thấy rõ qua việc làm nấm rồi làm phân hữu cơ để có thu nhập thêm", bà Phạm Thị Minh Hiếu cho biết thêm.

Rơm rạ được sử dụng để làm nấm rơm
Giải pháp cơ giới hóa quản lý rơm theo hướng giảm phát thải và nông nghiệp tuần hoàn đã được công nhận là Tiến bộ kỹ thuật của Việt Nam, đồng thời được Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) khuyến khích ưu tiên áp dụng. Giải pháp này hiện là hợp phần chính của Quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng ĐBSCL, nền tảng quan trọng của Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.
Theo Bộ NN&MT, các mô hình thí điểm cho thấy hiệu quả nổi bật như giảm khoảng 3 tấn CO₂ tương đương/ha so với tập quán vùi rơm rạ trong ruộng ngập nước. Tăng năng suất 10–15% khi sử dụng phân hữu cơ sản xuất từ rơm. Song song đó, ứng dụng EasyFarm một sản phẩm được tài trợ một phần bởi dự án RiceEco đã thử nghiệm với hơn 2.000 nông dân, kết nối họ với dịch vụ cơ giới hóa cuốn rơm và thị trường tiêu thụ rơm. Nền tảng số này giúp tăng thu nhập, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi hành vi quản lý rơm rạ theo hướng thân thiện môi trường.

Rơm rạ là nguồn nguyên liệu để nâng cao giá trị cho người dân
Ông Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (cũ) nhấn mạnh, tái sử dụng rơm rạ là trọng tâm trong chiến lược phát triển ngành lúa gạo và nông nghiệp sạch. Hiện nguồn cung rơm rạ vượt cầu, giá chỉ khoảng 1.000 đồng/kg, do đó cần kích hoạt thị trường, tháo gỡ rào cản lưu thông, mở rộng tiêu thụ trong nước và quốc tế.
Ông Cao Đức Phát đề xuất, đầu tư mạnh vào công nghệ nâng cao giá trị rơm rạ, từ nấm công nghệ cao đến sản phẩm sinh học, đồng thời hỗ trợ máy móc, doanh nghiệp và cơ sở sản xuất. Chính sách thuế cần xem xét giảm cho sản phẩm, dịch vụ liên quan rơm rạ, cùng với tăng cường tín dụng để phát triển toàn chuỗi giá trị bền vững.
"Chính sách đầu tiên quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường là chính sách thị thưởng, sau đó là công cụ hữu hiệu là công cụ thuế. Chúng ta phải xem việc đánh thuế hiện nay đối với các sản phẩm và các dịch vụ có liên quan đến rơm rạ là như thế nào, vì chúng ta xử lý rơm rạ thì chúng ta sẽ tạo ra một hiệu ứng ngoại lệ ngoại biên rất tốt" ông Cao Đức Phát nhấn mạnh.

Sau khi thu hoạch xong, rơm được đưa ra khỏi đồng ruộng
Rơm rạ không phải là phụ phẩm mà là tài nguyên sinh khối chiến lược, có tác động trực tiếp đến mục tiêu phát thải thấp, kinh tế tuần hoàn và hiệu quả sản xuất lúa gạo, đặc biệt tại ĐBSCL. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay còn nhiều hạn chế, tỷ lệ đốt rơm rạ vẫn trên 50%, chuỗi thu gom thị trường còn manh mún, phụ thuộc tự phát; vai trò hợp tác xã chưa phát huy; khung chính sách quản trị rơm rạ còn thiếu và rời rạc.
Theo nghiên cứu của dự án RiceEco cho thấy, thu gom rơm tái sử dụng có thể giúp giảm 2,5–3 tấn CO₂/ha/vụ, đồng thời phân hữu cơ từ rơm giúp tăng năng suất và phục hồi đa dạng sinh học đất. Vì vậy, xây dựng mô hình quản trị rơm rạ dựa trên cơ sở khoa học, gắn chuỗi giá trị với nhu cầu thị trường, thúc đẩy cơ giới hóa, củng cố vai trò hợp tác xã và phát triển hệ sinh thái chế biến rơm rạ là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Thu gom rơm rạ để tái sử dụng không chỉ giúp giảm lượng chất thải ra môi trường mà còn tạo ra giá trị kinh tế
Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, nhấn mạnh quản lý rơm rạ phải nằm trong chiến lược chuyển đổi xanh của ngành lúa gạo. Cần sớm xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho thu gom, bảo quản, vận chuyển và chế biến rơm rạ, tạo nền tảng pháp lý cho thị trường phát triển bền vững.
Bộ NN&MT cần nhân rộng mô hình hợp tác xã cung cấp dịch vụ thu gom, chế biến rơm rạ, gắn công nghệ và liên kết doanh nghiệp, đồng thời đưa vào quy hoạch tổng thể phối hợp với IRRI theo vùng nguyên liệu và nhu cầu sử dụng. Ông Thịnh cũng đề xuất huy động vốn ngân hàng, ODA và quỹ carbon hỗ trợ doanh nghiệp, HTX và nông dân; xây dựng hệ thống MRV (đo đạc - báo cáo - thẩm định) tham gia thị trường tín chỉ carbon; đồng thời tăng cường đào tạo, nâng cao nhận thức và truyền thông để rơm rạ được xem là tài nguyên kinh tế, môi trường giá trị.
"Xây dựng các hệ thống đo đạc, báo cáo thẩm định rơm rạ để chúng ta có thể phát triển được thị trường tín chỉ carbon, làm thế nào để quản trị tốt, không đốt rơm rạ. Chúng tôi vẫn muốn đề nghị IRRI phối hợp với các bên nghiên cứu để thực hiện MRV trong quản trị rơm rạ và xác nhận được những kết quả giảm phát thải khi chúng ta quản trị, chuyển rơm rạ ra khỏi đồng ruộng", ông Lê Đức Thịnh cho biết.
Đề án 1 triệu ha đang bước vào giai đoạn tăng tốc, chuyển đổi rơm rạ từ phụ phẩm bị đốt bỏ thành tài nguyên xanh không chỉ góp phần thực hiện cam kết Net Zero của Việt Nam, mà còn mở ra hướng đi mới cho ngành lúa gạo, giảm phát thải, tăng giá trị, nâng thu nhập cho nông dân. Đây chính là động lực để vựa lúa miền Tây tiến tới nền nông nghiệp hiện đại, bền vững trong tương lai.












